Nội dung chính
Chăm bón cây ngô (bắp) – Bón phân, nhu cầu dưỡng chất của cây ngô
1/ Điều tra hệ sinh thái ruộng ngô (bắp) ở những thời kỳ phát triển và sinh trưởng
1/1/ Thời kỳ ngô 3 – 4 lá
Hạt ngô sau gieo từ 5 – 8 ngày sẽ triển khai nảy mầm mọc thành cây giống mới, ở giai đoạn nảy mầm ngô có đặc tính là dùng dưỡng chất dự trữ trong hạt là chính yếu nhờ quá trình hút nước và những quá trình oxi hóa những chất phía bên trong hạt diễn ra mạnh mẽ qua đồng loạt những phản ứng sinh hóa phức tạp để biến những chất phức tạp thành những chất hòa tan nhờ hoạt động của những men với điều kiện có đủ ẩm độ, nhiệt độ, không khí thích hợp. Sau khi ngô nảy mầm sẽ sinh trưởng thành cây giống mới, đến đây sẽ có một sự thay đổi quan trọng khi cây ngừng dựa vào lượng dinh dưỡng dự trữ trong hạt sang trạng thái hút dinh của đất và cơ quan quang hợp của bộ lá bắt đầu hoạt động. Ở thời kỳ này những bộ phận dưới mặt đất (những lớp rễ đốt) phát triển mạnh và giữ vai trò chính trong việc hút nước và dinh dưỡng của cây, thân lá phía trên mặt đất phát triển chậm, thân chính cao 1 – 2 centimét so sánh với mặt đất. Đây chính là thời kỳ tạo thành đốt vì đỉnh sinh trưởng phân hóa để tạo thành đốt thân, bông cờ, bắp và tạo thành những lớp rễ đốt. Nói chung ở thời kỳ này cây ngô không cần nhiều dưỡng chất đa phần cần đất thoáng khí để có thể bảo đảm cung ứng đủ oxi cho bộ rễ phát triển. Để tạo cơ hội cho cây sinh trưởng thuận lợi thì khi cây ngô có lá thứ 4 bắt đầu xới xáo, bón phân và phối hợp chăm sóc đợt 1/
Cây ngô thời kỳ 3 – 4 lá
1/2/ Thời kỳ ngô 7 – 8 lá
Ở thời kỳ này cây ngô sinh trưởng cực kỳ mạnh về toàn bộ những bộ phận rễ, thân, lá. Chiều cao cây có khả năng tăng từ 8 – 10 centimét /ngày nên còn được gọi là giai đoạn lớn vọt của cây ngô. Hệ thống rễ cũng như cơ quan quang hợp của cây được hoàn thiện dần đồng thời cũng là giai đoạn phân hóa và quyết định số lượng hoa đực hữu hiệu, đọ lớn của bắp, số lượng hoa cái. Khi cây được 15 lá trở đi tốc độ ra lá nhanh hơn, khoảng từ 1 – 2 ngày lại ra 1 lá mới. Những chồi bắp bên trên phát triển vượt những chồi bắp bên dưới. Đây chính là giai đoạn cây ngô cần nhiều nước và dưỡng chất nên nếu gặp hạn sẽ khiến cho cây bị thấp, số lượng hoa tạo thành ít, chất lượng kém. Do tốc độ sinh trưởng nhanh nên nhu cầu dưỡng chất của cây ngô ở giai đoạn này là rất rộng lớn và đây là giai đoạn đạt hiệu suất cao về phân bón. Nếu thiếu dưỡng chất trong thời kỳ này sẽ gây hạ năng suất rõ ràng. Vì vậy ở thời kỳ này triển khai chăm sóc và bón phân cho ngô đợt 2 bằng phương pháp bón nhiều phân vô cơ phối hợp với tưới nước duy trì ẩm độ khoảng 80%.
Cây ngô thời kỳ 7 – 8 lá
1/3/ Thời kỳ ngô xoáy nõn
Ở thời kỳ này cây ngô ngừng sinh trưởng thân lá để chuẩn bị trổ cờ, nhưng vẫn tiếp tục hút những dưỡng chất từ đất. Những dưỡng chất và những chất hữu cơ bắt đầu tập trung mạnh vào những cơ quan sinh sản bởi vậy ở giai đoạn này ngoài những việc bảo đảm dinh dưỡng đầy đủ còn cần lưu ý duy trì ẩm độ 70 – 75%.
Cây ngô thời kỳ xoáy nõn
1/4/ Thời kỳ ngô trỗ cờ, tung phấn, phun râu, thụ tinh
Thời kỳ này bắt đầu khi nhánh cuối cùng của bông cờ xuất hiện rõ và bắp chưa phun râu. ở ngô thời gian tung phấn và phun râu không diễn ra đồng thời cùng 1 lúc mà thường chênh lệch nhau vài ngày, nếu điều kiện khí hậu thuận lợi, dinh dưỡng và nhất là nước đầy đủ thì thời gian chênh lệch càng ngắn, còn nếu điều kiện ngoại cảnh bất thuận, dinh dưỡng không đầy đủ và nhất là thiếu hụt nước trước trổ cờ khoảng 10 – 15 ngày thì thời gian tung phấn và phun râu chênh lệch càng lớn. Nói chung ở giai đoạn này cây ngô đa phần cần đủ nước, dinh dưỡng không cần nhiều, thời kỳ này thường nối dài trung bình khoảng từ 10 – 15 ngày nhưng lại là thời kỳ tác động trực tiếp tới năng suất ngô vì nó ảnh hưởng đến số hạt/bắp. Nếu quá trình thụ phấn, thụ tinh diễn ra thuận lợi số hạt/bắp lớn còn nếu quá trình trổ cờ, phun râu bất thuận (nghẹn cờ, râu hoặc thiếu hụt nước hạt phấn mất sức sống…) ảnh hưởng nhiều đến thụ phấn, thụ tinh thì sẽ gây giảm số hạt/bắp (gây nên hiện tượng khuyết hàng, khuyết hạt).
Cây ngô phun râu – Cây ngô khi tung phấn
1/5/ Thời kỳ ngô thâm râu
Khi râu ngô bắt đầu chuyển dần từ trạng thái tươi, có mầu nâu đỏ sang héo dần và thâm đi là biểu hiện của quá trình thụ phấn thụ tinh đã kết thúc và cây ngô bắt đầu chuyển sang thời kỳ chín còn gọi là thời kỳ vận chuyển những dưỡng chất dự trữ từ thân lá về hạt vậy nên trạng thái của hạt có sự thay đổi: sau phun râu khoảng 18 – 20 ngày hạt mềm, những dưỡng chất dự trữ trong hạt ở trạng thái lỏng, màu trẳng như sữa, râu bắp đã khô, hàm lượng nước chiếm đa phần khoảng 80% khối lượng hạt (nên còn được gọi là giai đoạn chín sữa). Đây chính là hời kỳ vận chuyển dinh dưỡng từ những cơ quan thân lá về hạt mạnh mẽ nhất nên việc bảo đảm đủ nước và dinh dưỡng ở giai đoạn đóng một vai trò cực kì quan trọng. Đủ nước quá trình vận chuyển dinh dưỡng về hạt thuận lợi, đủ dưỡng chất để có thể bảo đảm cho tiến trình quang hợp tổng hợp chất hữu cơ mới vẫn diễn ra bình thường để có nguồn dinh dưỡng vận chuyển về hạt và nhất là nhân tố kali còn có công dụng thúc đẩy quá trình vận chuyển dinh dưỡng từ cơ quan dinh dưỡng về cơ quan dự trữ càng thuận lợi hơn.
Cây ngô sau thụ phấn, thụ tinh
Sau phun râu khoảng 24 – 28 ngày hạt đã tạo thành xong chất lỏng trong hạt đặc lại dạng hồ, hạt dần cứng lại, phôi tăng nhanh về kích cỡ, hàm lượng nước trong hạt bắt đầu hạ còn khoảng 70% (còn được gọi là giai đoạn chín sáp).
Sau phun râu khoảng 55 – 60 ngày hạt đã chín sinh lý hoàn toàn, lớp sẹo đen ở chân hạt đã tạo thành, trọng lượng hạt đạt mức nhiều nhất, báo hiệu kết thúc sự phát triển của hạt, trọng lượng nước trong hạt hạ còn 30 – 35%, lá ngô và lá bi chuyển vàng.
Bắp ngô khi chín hoàn toàn
2/ Tính lượng phân cấp thiết trong mỗi thời kỳ sinh trưởng của cây ngô (bắp)
Để tính toán và quyết định bón phân cho ngô với lượng là bao nhiêu, loại phân gì cần dựa trên những căn cứ sau:
– Dựa trên nhu cầu và đặc tính hút dưỡng chất của cây ngô, đây chính là căn cứ quan trọng nhất, phản ánh được lượng dinh dưỡng cần thiết bổ sung cho đất.
– Dựa trên đặc tính, tính chất của đất: đối với đất phai màu nghèo dinh dưỡng, khả năng giữ dinh dưỡng kém nên bón nhiều phân hữu cơ để cải tạo đất và bón làm rất nhiều lần, đối với đất phù sa khả năng giữ dưỡng chất trong đất tốt hơn và thành phần dưỡng chất cũng phong phú nên có thể bón với lượng ít hơn và bón ít lần.
Ví dụ: đối với đất bãi phù sa Sông Hồng được bồi hàng năm, lượng dinh
dưỡng nhiều, hàm lượng kali trong đất cao kho trồng ngô không cần phải bón thêm kali hoặc chỉ cần bón với lượng thấp từ 30 – 60 kilogam K2O/ hecta, ngược lại trên những chân đất phai màu của Bắc Giang, Phú Thọ do quá trình trồng trọt và rửa trôi nên hàm lượng kali trong đất thấp nên khi bón cần đẩy mạnh bón kali, có thể bón với lượng từ 90 – 120 K2O/ hecta.
– Dựa trên đặc tính của giống: những giống ngô lai cho năng suất cao chịu thâm canh thì nhu cầu dưỡng chất cao hơn những giống ngô thường.
Ví dụ: những giống ngô có lợi thế lai cao như P11, P9901, Bioseed 9670, 9681, DK888, LVN – 10…cần bón phân tăng gấp 1,2 – 1,5 lần so sánh với những giống thụ phấn tự do(OPV) và giống địa phương.
Lượng phân bón cho ngô đối với những nhóm giống và một số loại đất có thể tham khảo qua bảng sau:
Loại đất | Nhóm đất | Lượng phân bón cho 1 ha | |||||||
Giống chín sớm | Giống chín trung bình và muộn | ||||||||
Phân chuồng (tấn) | N ( kilogam ) | P2O5 ( kilogam ) | K2O ( kilogam ) | Phân chuồng (tấn) | N ( kilogam ) | P2O5 ( kilogam ) | K2O ( kilogam ) | ||
Đất phù sa | Sông Hồng được bồi hàng năm | – | 120 | 60 | 30 | – | 150 | 60 | 60 |
Những sông khác được bồi hàng năm | – | 120 | 60 | 60 | – | 150 | 60 | 60 | |
Không được bồi hàng năm | 5 – 10 | 120 | 60 | 60 | 5 – 10 | 150 | 60 | 60 | |
Đất nhẹ | Phai màu, xám phai màu, cát ven biển | 8 – 10 | 120 | 60 | 90 | 8 – 10 | 150 | 60 | 90 |
Đất đỏ đồi núi | Phát triển trên đất mẹ Bazan | – | 120 | 60 | 60 | – | 150 | 60 | 60 |
Phát triển trên những đất mẹ khác | 5 – 10 | 120 | 60 | 60 | 5 – 10 | 150 | 60 | 60 |
– Dựa trên đặc tính của loại phân bón: phân vô cơ, hữu cơ, khả năng dễ tiêu của phân, kỹ thuật… nếu phân hữu cơ cần bón với lượng lớn do hàm lượng những dưỡng chất trong phân hữu cơ thấp, còn nếu bón phân vô cơ thì có thể bón với lượng ít hơn do hàm lượng dưỡng chất trong phân vô cơ cao, bón phân NPK hài hòa phối hợp với phân hữu cơ là giải pháp hữu hiệu nâng cao năng suất và chất lượng ngô, giúp cải tạo đất, góp thêm phần chống xói mòn và bảo vệ môi trường sinh thái. Theo FAO (1993) sau hơn 30 năm nghiên cứu và thực nghiệm nếu chỉ dùng phân chuồng và tàn dư các loại thực vật để trả lại cho đất trồng mà dường như không dùng phân hóa học (NPK) thì năng suất cây trồng hạ ít nhất là 30%, cân bằng dinh dưỡng bị phá vỡ, đất bị phai màu và nạn đói đe dọa, sẽ gây hậu quả rất nghiêm trọng về môi trường sinh thái. Bón phân vô cơ phối hợp phân hữu cơ cho ngô đã nâng cao năng suất ngô và hỗ trợ nâng cấp độ phì trong đất, theo Bùi Đình Dinh (1988, 1994) để có thể bảo đảm cho cây trồng có cho năng suất cao, ổn định, bón phân hữu cơ chiếm 25% tổng số dinh dưỡng, còn 75% bón phân hóa học.
– Dựa trên chế độ luân canh, xen canh: nếu tiến hành trồng ngô trong cơ cấu luân canh cần tìm hiểu thêm mức bón phân của cây trồng trước để định ra kỹ thuật bón phân cho cây ngô. Khi trồng ngô thuần cần bón phân ở mức độ cao nhưng khi trồng xen cần tính toán lượng phân cần bón cho thích hợp với cây ngô.
Ví dụ: Khi trồng ngô trong công thức luân canh là lúa – ngô thì vụ trồng ngô có thể bón nhiều phân nếu vụ trước đó thu hoạch cả rơm rạ, nhưng nếu vụ trước đó chỉ cắt bông còn rơm rạ giữ lại trên ruộng đồng thì vụ sau trồng ngô có thể bón ít kali hơn vì trong rơm rạ hàm lượng kali khá cao. Hoặc nếu công thức xen canh là ngô – lạc thì có thể bón ít đạm hơn so sánh với trồng thuần ngô vì lạc là loại cây họ đậu có thể cố định đạm cung ứng 1 phần dinh dưỡng đạm cho ngô.
Cây ngô trồng xen
– Dựa trên điều kiện thời tiết, thời tiết: trong hoàn cảnh vụ đông xuân nhiệt độ thấp cần đẩy mạnh bón lót, bón sớm, và có thể tăng lượng bón vì nhiệt độ thấp khả năng phân giải và hòa tan của phân trong đất chậm. Vụ hè thu nhiệt độ cao đa phần bón thúc, chia làm rất nhiều lần bón lưu ý giai đoạn cuối.
– Dựa trên đặc tính của giống như giống dài ngày nhu cầu dưỡng chất cao hơn giống ngắn ngày, giống ngô thuần nhu cầu thấp hơn so sánh với những giống ngô lai, những thời kỳ sinh trưởng khác nhau nhu cầu dưỡng chất của cây cũng khác nhau: giai đoạn cây giống nhu cầu dưỡng chất thấp, giai đoạn phát triển mạnh nhu cầu dưỡng chất cao…Những giống có thời gian sinh trưởng dài nhu cầu dưỡng chất gấp 1,2 lần so sánh với những giống có thời gian sinh trưởng ngắn.
Hiệu quả của phân bón chỉ có thể phát huy đầy đủ khi có kỹ thuật bón phân một cách hợp lý, bón hài hòa giữa những nguyên tố. Bón phân cho ngô để đạt được giá trị kinh tế cao phải dựa trên đặc điểm của loại giống ngô, đòi hỏi sinh lý của cây ngô qua những giai đoạn sinh trưởng. Tình hình sinh trưởng của cây ngô trên ruộng, tính chất đất, đặc tính loại phân bón, cách trồng trọt và điều kiện thời tiết thời tiết.
2/1/ Phân đạm (dinh dưỡng đạm) đối với các loại cây ngô (bắp)
Đạm là thành phần dưỡng chất quan trọng không những riêng với cây ngô bởi N trong đạm tham dự vào thành phần của protein, acid amin, diệp lục, enzim…đây chính là các chất quan trọng bậc nhất trong việc kiến tạo vật chất và điều tiết mọi hoạt động sống của cây trồng. cho nên khi đủ đạm cây sinh trưởng tốt sinh ra năng suất chất xanh và năng suất hạt cao. Khi thiếu đạm cây phát triển kém, vàng lá, còi cọc, năng suất chất xanh thấp, năng suất hạt hạ, nếu thiếu đạm nối dài có thể không có thể thu hoạch, vậy nên đạm đóng một vai trò quyết định đối với năng suất cây trồng.
Dấu hiệu của cây ngô khi thiếu đạm
Theo thành quả nghiên cứu của viện ATLANTA của Mỹ trên 1 giống ngô có thời gian sinh trưởng 125 ngày cho biết nhu cầu hút đạm của cây ngô có sự khác nhau ở những thời gian sinh trưởng khác nhau: 25 ngày đầu khi ở giai đoạn cây con nhu cầu hút đạm của cây ngô chỉ chiếm 7,8% nhu cầu đạm của cả chu kỳ sinh trưởng. 25 ngày tiếp theo nhu cầu đạm của cây ngô được tăng lên 35% do đây chính là giai đoạn cây ngô sinh trưởng thân lá và tạo thành những cơ quan sinh sản tương đối mạnh, hoàn chỉnh bộ rễ đốt. 25 ngày tiếp theo nhu cầu đạm của cây ngô là 28,4% tương ứng với giai đoạn cây ngô cần đạm để hoàn thiện những cơ quan sinh sản và thụ phấn, thụ tinh. 25 ngày tiếp theo cây ngô cần 20% tổng lượng đạm của cả chu kì sinh trưởng tương ứng với giai đoạn cây ngô tích lũy đạm vào cơ quan dự trữ là hạt và đến 25 ngày cuối cây ngô chỉ dùng 6% tổng lượng đạm của cả chu kỳ sinh trưởng tương ứng với giai đoạn chín sáp và chín hoàn toàn của cây cây ngô.
Tuy vậy, dựa theo giống và điều kiện thâm canh, đất đai… có thể bón đạm với lượng từ 80 – 150 kgN/ hecta.
Khi dùng phân đạm bón cho ngô cần lưu ý:
Ngô là loại cây phát triển mạnh, nhanh nên nhu cầu về đạm của cây ngô là tương đối lớn, nhất là thời kỳ đầu để gia tăng diện tích quang hợp, khi cây chuyển sang giai đoạn chín thì nhu cầu đạm hạ đi bởi vậy việc bón đạm quá tay ở thời kỳ đầu ít nguy hiểm hơn thời kỳ sau.
Khi bón đạm cần dựa trên khả năng giữ đạm và cung ứng đạm của đất, các chỉ tiêu giúp ta phán đoán được khả năng đó là dựa trên một vài chỉ tiêu phân tích và kinh nghiệm của địa phương. Bên cạnh đó cũng cần phải quan tâm đến tính chất của đất. Nếu đất có thành phần cơ giới nặng như: đất thịt nặng, đất có tỷ lệ sét cao… khả năng trao đổi ion kém nên có thể chọn dạng phân amon. Với đất thoáng khí như: đất cát, thịt nhẹ… nếu bón phân amon thì dạng đạm này dễ chuyển thành đạm nitrat, đây chính là dạng đạm có thể hấp thu nhỏ, dễ bị rửa trôi do đó hạn chế bón tập trung mà phải chia nhỏ ra làm rất nhiều lần bón.
Khi dùng đạm cần sự quan tâm tới một số loại ion đi kèm trong thành phần của phân đạm để có thể bảo đảm cung ứng thêm được những nhân tố phân vi lượng cho ngô.
Ngày nay phân đạm đa phần là ure. Khi bón phân ure cần lưu ý: nếu ẩm độ đất cao cần lấp đất để giữ phân, nếu đất khô sau khi tiến hành bón phải tưới nước để đất giữ phân và cây dễ hấp thu, tốt hơn tăng hiệu quả của phân bón. Nhiều trường hợp bón ure làm cây trồng đồng hóa canxi và magie tốt hơn. Vì vậy ure là phânphù hợp cho hầu hết các loại đất bao gồm cả đất chua, đất bạc mầu rửa trôi mạnh canxi và magie. Ure có thể xịt lên lá tốt hơn một số loại phân đạm khác, khi ở giai đoạn cây con thì dụng nồng độ thấp, khi cây đã phát triển hoàn chỉnh thì sử dụng nồng độ cao hơn.
Khi dùng phân ure cần lưu ý đến hàm lượng biure vì biure là chất độc cho cây trồng, nó ức chế quá trình hô hấp và quang hợp của cây, ngăn ngừa tỷ lệ nảy mầm của hạt giống. Hàm lượng biure cho phép đối với các loại cây ngô là 1 – 2% so sánh với ure.
Phân đạm ure có hiệu lực chậm hơn một số loại đạm khác do đó cần tính toán thời gian bón cho cây cho hợp lý.
2/2/ Phân kali (dinh dưỡng kali) đối với các loại cây ngô
Đối với ngô kali được biết đến như là nhân tố dinh dưỡng quan trọng thứ 2 sau đạm Kali cấp thiết với sự hoạt động của keo nguyên sinh chất kìm hãm sự thoát hơi nước, hạ tổn thất do mô sương giá và nhiệt độ thấp, tăng khả năng chịu đựng sâu hại, đẩy nhanh tiến trình quang hợp, vận chuyển những sản phẩm quang hợp về hạt, thúc đẩy việc hút những nhân tố dinh dưỡng khác như N, P…thúc đẩy quá trình sống của cây. Khi thiếu kali bắp sẽ nhỏ, mép lá lúc đầu bị vàng, tiếp đến lá có mầu sáng, mềm đi, phiến lá không trải ra 1 cách bình thường mà uốn cong như gợn sóng.
Một vài dấu hiệu của cây ngô khi thiếu kali
Đặc tính dinh dưỡng của cây ngô với kali như sau: ngô hút nhiều kali vào giai đoạn giữa, 25 ngày đầu cây hút khoảng 9%, 25 ngày tiếp theo cây hút khoảng 43%, giai đoạn phun râu cây hút khoảng 30%, giai đoạn tạo hạt cây hút khoảng 15%, giai đoạn chín cây hút 15%. Như vậy, giai đoạn lớn vọt đến chín sữa là giai đoạn cây cần nhiều kali nhất.
Để nâng cao sự hiệu quả bón phân kali cho ngô cần lưu ý đến một vài đặc tính sau: Hầu hết các loại phân kali đều tan trong nước, khi bón vào trong chất đất kali và những ion có mặt khác ở phía trong phân sẽ một phần được hấp thu vào keo đất, một phần sẽ đẩy những cation ra ngoài dung dịch đất khiến cho đất dễ bị chua. Vì vậy khi bón kali thường xuyên, nhất là trên các chân đất thâm canh ngô thì cần bón thêm vôi. Đặc biệt là trên các chân đất chua, kali có thể đẩy những ion Al3+, H+ ra ngoài dung dịch đất khiến cho pH đất hạ đột ngột. Vậy nên, tác động trực tiếp tới sự phát triển của cây, có thể xẩy ra hiện tượng làm mất sức nảy mầm của hạt giống. Bởi vậy kali chỉ nên dùng bón thúc cho ngô, ít dùng bón lót, nếu bón lót kali cho ngô trên đất chua cần rắc vôi trước khi tiến hành gieo hạt.
Bón phân kali cần bón kết hợp hài hòa và đầy đủ một số loại phân khác thì hiệu lực của phân kali trong đất mới cao.
2/3/ Phân lân (dinh dưỡng lân) đối với các loại cây ngô
Trong phân lân có P là thành phần tham dự vào cấu trúc của những hợp chất nucleotit, ADR, ARN, những hợp chất cao năng ATP, ADP… là các hợp chất quan trọng trong suốt quá trình phân chia tế bào tạo mới những bộ phận của cơ thể. Khi thiếu lân quá trình phân hóa hoa của cây ngô bị ảnh hưởng không tốt khiến cho bắp nhỏ, bông cờ nhỏ, ít hoa. Bên cạnh đó còn khiến cho bộ rễ phát triển kém, 2 mép lá tạo thành 2 dải tím đỏ, cây non chuyển sang mầu huyết dụ tương đối rõ.
Dấu hiệu của cây ngô khi thiếu lân
Lân nâng cao sức sống và chất lượng của hạt, có đến 75% lượng lân cây đồng hóa được tập trung ở phía trong hạt. Lân hỗ trợ cây tăng sức chịu đựng với ngoại cảnh bất thuận nhất là hạn và nhiệt độ thấp.
Đặc tính dinh dưỡng của lân đối với các loại cây ngô: Cây ngô cần lân khoảng 50 ngày đầu sau khi tiến hành trồng với lượng khoảng 30% tổng lượng trong suốt chu kỳ sinh trưởng, giai đoạn này lân đóng vai trò quan trọng đối với việc phân hóa những cơ quan, bộ phận, thúc đẩy sự sinh trưởng của bộ rễ, quá trình phân hóa hoa đực hoa cái, tạo tiền đề cho năng suất sau này. Giai đoạn 50 ngày tiếp theo nhất là giai đoạn tạo hạt cây ngô hút lượng lân lớn khoảng 65% để tích lũy chất tạo hạt. Giai đoạn chín đòi hỏi lân hạ dần cây ngô chỉ hút khoảng 5% tổng lượng lân của cả chu kỳ sinh trưởng. Lượng lân bổ sung cho cây ngô khoảng 60 – 90 kilogam P2O5/ hecta.
2/4/ Phân vi lượng (dinh dưỡng vi lượng) đối với các loại cây ngô
Những nguyên tố vi lượng là các nhân tố phân mà cây ngô cần với một vài lượng cực kỳ nhỏ, nhưng đóng góp vào vai trò quan trọng trong việc điều tiết những hoạt động trao đổi chất bởi nó tham dự vào thành phần của những men, vitamin. Nếu thiếu những nhân tố vi lượng hoạt động trao đổi chất của cây bị rối loạn. Những nhân tố vi lượng còn đóng góp vào vai trò quan trọng trong việc nâng cao sức chịu đựng cho cây như: chống rét, chống sâu hại
Khi thiếu vi lượng cây ngô có các dấu hiệu như sau:
– Cây ngô thiếu S: cũng giống như dấu hiệu thiếu N, cây mảnh khảnh, không mềm mại. Lá có màu vàng nhạt, dấu hiệu bệnh thường hay xuất hiện ở những lá non, ở phần ngọn trước, lá non mọc ra có mầu lục nhạt đồng đều hoặc bạc phếch, khi phun đạm hay bón đạm cũng không thấy xanh lại thì đúng là bệnh thiếu S.
Dấu hiệu cây ngô khi thiếu trung lượng Magie (Mg)
– Cây ngô thiếu canxi: canxi thường không dịch chuyển trong cây nên trong mạch libe cực kỳ ít ion canxi. Ở cây ngô nếu thiếu canxi trầm trọng thì lá non không mọc ra được, đầu lá có khả năng bị một lớp gelatin bao trùm, lá có xu hướng như dính vào nhau (ngọn lá trên dính vào lá bên dưới kế tiếp ngay với nó).
– Cây ngô thiếu magie: khác với canxi magie cực kỳ linh động trong cây, nên dấu hiệu thiếu magie xuất hiện giai đoạn đầu ở những lá bên dưới. Magie có trong trong thành phần của diệp lục nên thiếu magie thì lá mất màu xanh lục. Cây thiếu magie thịt lá thường vàng ra chỉ còn gân lá có mầu xanh, nên trên những lá đơn tử diệp có bộ gân song song như lá ngô nên xuất hiện những dải mầu vàng xen giữa những dải gân song song.
Dấu hiệu cây ngô khi thiếu trung lượng lưu huỳnh (S)
– Cây ngô thiếu kẽm:kẽm không linh động trong cây nên dấu hiệu thiếu kẽm thường tìm thấy ở những lá non và đỉnh sinh trưởng. Cây ngô thiếu kẽm lá non vàng đi rồi trắng ra nên có tên gọi là trắng búp.
– Cây ngô thiếu đồng: dấu hiệu thiếu đồng cũng thường tìm thấy ở ngọn cây, những lá mới vàng đi tiếp đến ngọn và mép lá bị hoại tử giống như dấu hiệu thiếu kali.
– Cây ngô thiếu sắt: sắt cũng là nguyên tố linh động trong cây nên khi thiếu sắt dấu hiệu cũng chớm xuất hiện ở những lá non. Do 90% sắt nằm trong lục lạp (chrotoplast) và microchondia nên khi thiếu sắt thì lá mất mầu xanh. Cây ngô thiếu sắt lá có mầu xanh nhạt, phần thịt lá nằm giữa những gân vàng đi (nên dễ nhầm với dấu hiệu thiếu magie). Nếu thiếu rất nghiêm trọng thì tất cả lá non chuyển sang mầu trắng.
– Cây ngô thiếu Mn: mangan cũng là nguyên tố linh động trong cây nên khi thiếu mangan dấu hiệu cũng chớm xuất hiện ở những lá non trước. ở gốc những lá non xuất hiện những khu vực xám tiếp đến chuyển dần từ vàng nhạt đến vàng da cam. Phần thịt lá giữa những gân lá xuất hiện những đốm vàng tiếp đến có khả năng bị hoại tử.
Dấu hiệu cây ngô khi thiếu vi lượng Magan (Mn)
– Cây ngô thiếu Bo: Bo là một nguyên tố vi lượng kém linh động nhất trong cây, không hề dễ dàng được vận chuyển từ những bộ phận già đến những bộ phận non. Dấu hiệu thiếu Bo cũng chớm xuất hiện từ đỉnh sinh trưởng và mô phân sinh đỉnh thân, đỉnh rễ, đỉnh lá, chồi hoa. Nếu thiếu Bo hạt phấn nảy mầm kém, vòi hạt phấn phát triển và sinh trưởng cũng kém nên tác động tới việc thụ phấn, thụ tinh.
– Cây ngô thiếu Mo: khi thiếu Mo ảnh hưởng nhiều đến việc chuyển hóa N trong cây, nên dấu hiệu thiếu Mo cũng dấu hiệu giống như dấu hiệu thiếu N, lá vàng ra.
Điểm úa vàng xuất hiện giữa những gân lá của các lá bên dưới, tiếp đó là bị hoại tử.
– Cây ngô thiếu Clo: Clo có công dụng gây giảm hoặc ngăn ngừa bệnh thối thân trên cây ngô. Khi thiếu clo đầu phiến lá bị héo tiếp đến mất mầu xanh chuyển sang mầu đồng thau rồi hoại tử. Sinh trưởng của rễ bị ngăn ngừa, rễ bên cuộn lại.
Bên cạnh đó những nhân tố vi lượng như Cu, Mn, Zn… có công dụng nâng cao năng suất ngô từ 5 – 25% và còn nâng cao chất lượng hạt do nâng cao hàm lượng protein trong hạt. Việc bón phân vi lượng cho ngô có thể dựa trên cây trồng trước, loại đất hoặc có thể bón kết hợp với một số loại phân đa lượng qua đất. Trong các trường hợp thiếu vi lượng có thể dùng những chế phẩm phun qua lá vì đa phần thiếu vi lượng không phải bởi đất không có mà do điều kiện sinh thái cây không hút được hoặc do mất hài hòa dinh dưỡng vi lượng. Hiện tượng đó phải được xử lý kịp lúc bằng phương pháp xịt lên lá sẽ cho hiệu quả nhanh nhất. Và để dành được nguyên vật liệu dùng. Nồng độ phân xịt lên lá dao động từ 0,001 – 0,005%.
Phun phân vi lượng cho ngô
Bên cạnh đó có thể bổ sung thêm phân vi lượng cho ngô thông qua hình thức tẩm qua hạt giống trước khi tiến hành gieo. Nếu đất trồng thường thiếu loại phân nào thì tẩm hạt giống với loại phân đó, biện pháp này cũng cho hiệu quả tốt.
3/ Những kỹ thuật bón phân cho ngô (bắp)
3/1 Bón lót cho ngô, loại phân bón chuyên bón lót cho cây ngô
Mục đích của việc bón lót phân cho ngô là cung ứng dưỡng chất cho cây trồng cho cây trong toàn bộ giai đoạn sinh trưởng phát triển. Lượng phân bón lót cho ngô tương đối nhiều chiếm 70% tổng số phân bón cho ngô. Phân bón lót cho ngô đa số là phân hữu cơ, phân chuồng, phân xanh và có thể phối hợp với phân vô cơ như: phân lân, kali, đạm. Ở các nơi thiếu phân chuồng có thể sủ dụng bèo hoa dâu bón lót cho ngô cũng cực kỳ tốt, bón lót bèo hoa dâu cho ngô không chỉ nâng cao năng suất ngô mà còn có công dụng rõ trong việc cải tạo đất.
Có rất nhiều phương pháp bón lót cho ngô: bón vãi, bón hốc hay bón theo rạch. Trong hoàn cảnh ít phân nên bón theo hốc, theo những rạch. Khi sử dụng phân hữu cơ bón lót cho ngô phải sử dụng phân thật hoai mục, khi bón lót cần lưu ý không để hạt giống tiếp xúc trực tiếp với phân vì phân hóa học tiếp xúc với hạt sẽ gây ảnh hưởng nhiều đến quá trình nảy mầm của hạt.
Trong hoàn cảnh ở nước ta tổng lượng phân bón cho ngô trên 1 ha là: 8 – 10 tấn phân chuồng, 120 – 150kgN, 60 – 90 Kilogam P2O5 và 30 – 60 kilogam K2O. Trong số đó, phân chuồng và phân lân sử dụng bón lót tất cả, bón lót 1/3 lượng phân đạm.
3/2 Bón thúc cho ngô, loại phân bón chuyên bón thúc cho cây ngô
Bón thúc cho ngô có công dụng nâng cao năng suất rất rõ ràng rệt, nhất là các nơi lượng phân bón lót ít. Nói chung khi bón thúc cho ngô phải sử dụng phân có hiệu quả nhanh như phân chuồng thật hoai mục, cách tốt nhất là sử dụng phân hóa học phân đạm và phân kali.
Bón thúc cho ngô có hai giai đoạn chính sau:
– Bón thúc lần 1 khi cây ngô có 3 – 5 lá: thời kỳ này dưỡng chất trong hạt đã hết, cây ngô phải hút dưỡng chất từ đất, đây là giai đoạn cây ngô đang phân đốt. Vậy nên bón thúc ngay lúc này cung ứng dưỡng chất kịp lúc cho ngô đẩy nhanh quá trình phân hóa đốt và số lá. Thường các nơi đất xấu ít phân bón lót nếu như không bón thúc giai đoạn này thì cây thấp nhỏ những giai đoạn sau có bón bổ sung cây vẫn không lớn được. Bón thúc lần 1 phối hợp xới xáo, làm cỏ. Lượng bón thúc lần 1: 1/3 lượng phân đạm, 1/2 lượng phân kali.
Bón thúc thời kỳ 3 – 5 lá nên bón gần gốc, cách gốc 4 – 5 centimét và bón nông. Những lần bón thúc sau nên bón xa gốc và sâu hơn, thường bón cách gốc 12 centimét và sâu 5 – 7 centimét. Khi bón thúc phải làm cỏ xới xáo, bón thúc xong phải vun gốc ngay mới tăng hiệu lực phân
– Bón thúc lần 2 khi cây ngô có 9 – 10 lá: ngay lúc này cây ngô bước vào thời kỳ phân hóa những cơ quan sinh sản cái. Bón thúc cho ngô ngay lúc này có công dụng khiến cho quá trình tạo thành bắp được thuận lợi. Lần bón thúc này phối hợp làm cỏ, xới xáo, vun cao gốc và tưới nước (nếu như không mưa ). Lượng bón thúc lần 2: 1/3 lượng phân đạm, 1/2 lượng phân kali.
Bón 1/3 đạm + 1/3 kali bón lúc ngô có 7 – 9 lá thật. Bón giai đoạn này có công dụng thúc đẩy sự sinh trưởng của bộ rễ đốt, giúp cây hút được đông đảo dưỡng chất chống đổ tốt. Đẩy nhanh quá trình sinh ra những bộ phận sinh trưởng như: thân, lá, rễ. Đẩy nhanh quá trình phân hóa cac cơ quan sinh sản. Đẩy nhanh phân hóa đực (bước 4-6). Hoa cái (bước 1-4) là những bước nâng cao số gié, số hoa đực và hàng hoa cái sau này.
Kỹ thuật bón phân thúc cho cây ngô: Trộn đều phân bón vào rãnh, rạch sâu 5 -7 centimét hai bên hàng ngô cách gốc 10 – 15 centimét. Tiếp đến lấp đất vun vào gốc sử dụng 1/3 đạm + 1/3 kali. Trong hoàn cảnh cho phép về lao động có thể bón như sau: bón lót tất cả phân chuồng, phân lân; bón thúc vào 3 thời kỳ: lần 1 lúc cây ngô có 3 – 4 lá, bón 1/3 lượng đậm + 1/2 kali; lần 2 lúc cây ngô có 9 – 10 lá, bón 1/3 lượng đạm + 1/2 kali; lần 3 lúc cây ngô trỗ cờ, bón nốt 1/3 lượng đạm.
Bón thúc phân cho ngô
Lúc cây ngô 3 – 4 lá có thể pha phân với nước để tưới cho cây. Trường hợp đất ẩm có thể bón trực tiếp vào trong đất rạch 2 bên rãnh cách gốc 5 – 7 centimét, rải đều phân, sử dụng đất bột lấp lại. Phối hợp vun nhẹ xung quanh gốc ngô.
Bón lúc ngô xoắn nõn (10-15 ngày xưa trỗ): lần bón này có công dụng tốt cho quá trình phân bón hóa bắp, trổ cờ, tung phấn, thụ tinh sử dụng tất cả lượng phân còn lại bón trực tiếp vào trong đất như đợt 2 và kéo đất vun cao lần cuối.
Lưu ý khi bón phân cho ngô:
Vào giai đoạn cây giống ở một vài thời vụ ngô thường bị ngập nước, hoặc chết rét. Rễ kém phát triển (chân chì) làm cây còi cọc. Có thể phối hợp pha P + N (lượng lân là chính) tưới cho cây để thúc đẩy sự sinh trưởng của bộ rễ.
Nói tóm lại bón thúc cho ngô phải dựa trên giống, chất đất, khí hậu, lượng phân bón lót cũng như cách trồng trọt để định số lần bón, giai đoạn bón và lượng phân bón cho thích hợp. Về loại phân bón thúc quy tắc chung là sử dụng loại phân dẽ tiêu, có hiệu quả nhanh như phân đạm, phân hữu cơ thật hoai mục, cách tốt nhất là sử dụng phân nước hoặc bón phân phối hợp với tưới nước. Trong hoàn cảnh Việt Nam loại phân giầu đạm như phân bắc, hoai mục, nước tiểu bón cho ngô cực kỳ tốt.
– Cây trồng liên quan: Cây ngô (cây bắp)
– Tham khảo thêm chủ đề: cây ngô, cây bắp, nhu cầu dưỡng chất của cây ngô, phân bón chuyên sử dụng để cho cây ngô, dấu hiệu thiếu dưỡng chất trên cây ngô
Ngoài ra, trong bài viết này, chúng tôi có đề cập đến 1 số loại dinh dưỡng và sâu bệnh, quý bà con có thể dụng các loại thuốc sau để điều trị cho cây trồng:
– Giúp hạn chế chết CÂY CON: elcarin, sunshi, thần y trị bệnh, sat, kasumin, siêu vi khuẩn agri-a, kinkinbul, athuoctop 480sc, ridomil gold 68wp,
– Giúp null CẢI TẠO ĐẤT: vino roots,
– Giúp kích thích nảy mầm NẢY MẦM: ademon super 22.43sl, dekamon 22.43l, root plex,
– Giúp null PHÂN HỮU CƠ: agrimartin super organic,
– Giúp trị bệnh SẸO ĐEN: siêu sùng 135ec,
– Giúp trị bệnh THIẾU Canxi: phân bón vi lượng tym04,
– Giúp trị bệnh THỐI THÂN: physan lạnh 20sl, alpine 80wdg, aragibat liên việt, actinovate 1sp, daone 25wp, agofast 80wp, aikosen 80wp, caligold 20wp, elcarin 0.5sl, super tank 650wp,
– Giúp trị vi khuẩn VI KHUẨN : avalon 8wp, kasumin 2sl, k.susai 50wp, kufic 80sl, rorai 21wp, dũng sĩ diệt khuẩn, visen 20sc, daone 25wp, yomisuper 22sc, actinovate 1sp,
Nhấp vào nút Mua Nhanh bên dưới để đặt mua qua chúng tôi.
LIÊN HỆ MUA HÀNG : 0969.64.73.79