Nông nghiệp hữu cơ: Hiện trạng và giải pháp nghiên cứu – phát triển (P3)

Nông nghiệp hữu cơ: Hiện trạng và biện pháp nghiên cứu - phát triển (P3)

 

Nông nghiệp hữu cơ: Hiện trạng và biện pháp nghiên cứu – phát triển (P3)

Nông nghiệp hữu cơ: Hiện trạng và giải pháp nghiên cứu - phát triển (P3)

PGS.TS.Nguyễn Văn Bộ – Giám đốc Viện KH Nông nghiệp Việt Nam

PHẦN I | PHẦN 2 | PHẦN 3 | PHẦN 4|

Thời cơ VÀ THÁCH THỨC CHO SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ Ở VIỆT NAM

1/ Thách thức:

Ngày nay, thật sự nông nghiệp hữu cơ là một thời cơ cho Nông nghiệp Việt Nam, nhất là khi giá bán những nông sản đang xuống thấp, chất lượng và vệ sinh an toàn chưa được khống chế hiệu quả. Tuy vậy, nông nghiệp hữu cơ với qui mô nào, đối tượng nào, và quan trọng hơn là có thị trường không? Cùng với sự đồng thuận và ủng hộ của người tiêu sử dụng, hỗ trợ của Nhà nước là các điều kiện cực kỳ quan trọng.

Có thể nói, hữu cơ là một chỉ tiêu quan trọng bậc nhất của độ phì nhiêu đất Việt Nam. Nó không những bảo đảm ổn định độ phì nhiêu đất, tăng khả năng giữ dinh dưỡng, đẩy mạnh hiệu lực phân hóa học mà còn hạ thiểu tác động của những nhân tố độc hại như sắt, nhôm, mangan… thông qua quá trình tạo phức hữu cơ. Tuy vậy, hữu cơ trong đất Việt Nam lại chịu sự tác động mạnh mẽcủa quá trình khoáng hoá nên hàm lượng của chúng suy yếu nhanh chóng, nhất là trên đất đồi núi, nơi vừa chịu tác động của quá trình khoáng hóa, vừa chịu tác động của quá trình rửa trôi.

Trước đây, Việt Nam với dân số ít, những giống cây trồng, nhất là lúa là các giống truyền thống, năng suất không được cao nên việc bón một lượng phân hữu cơ hay phân xanh (8 tấn/ hecta /vụ) là bảo đảm phục vụ đủ nhu cầu của cây trồng. Chính vì thế, đã từng có thời gian phân chuồng, bèo dâu, điền thanh là các loại phân bón chính cho cây lương thực hay phân bắc, nước tiểu là các loại phân bón chính cho rau… Tuy vậy ngày nay, cùng với việc gieo trồng những giống mới và gia tăng 2-4 vụ/năm thì dinh dưỡng cung cấp từ phân chuồng và đất không phục vụ đủ, trong khi việc sản xuất phân xanh lại thu nhỏ, do thiếu lao động cũng như diện tích đất trồng.

Việt Nam là một nước nông nghiệp, đất chật người đông và diện tích đất nông nghiệp trên đầu người ngày càng suy yếu, từ 0,13ha năm 1980 xuống còn khoảng 0,1 ha ngày nay, chỉ bằng 8,7% trung bình của thế giới. Đó là chưa kể ở các khu vực sản xuất nông nghiệp tập trung như Đồng bằng sông Hồng thì chỉ còn gần 400 m2/người. Xu thế thay đổi đất trồng trọt của thế giới cũng có chiều hướng tương đương. Trong 25 năm qua (1965-1990), diện tích đất trồng trọt của toàn cầu tăng được có 9,4%, trong khi dân số lại tăng 68,5% trong cùng thời gian, khiến cho bình quân diện tích đất trồng trọt trên đầu người hạ 35,1% hay 1,4%/năm. Để có thể bảo đảm an ninh lương thực, những nước có thể dựa trên 2 nhân tố là mở rộng diện tích và năng suất. Với Việt Nam hiện tại chỉ còn có một con đường độc nhất là nâng cao năng suất. Xu thế này cũng là xu thế của những nước đang phát triển trên toàn cầu, tức là đóng góp của nhân tố diện tích, bao gồm cả tăng vụ đã ngày càng chiếm tỉ trọng thấp hơn. Theo xu thế này, ngay cả Trung Quốc, một quốc gia được coi là nguồn gốc của nông nghiệp hữu cơ truyền thống cũng đã phải hạ dần tỉ trọng của dinh dưỡng từ phân hữu cơ trong tổng lượng dinh dưỡng dùng, từ 98,6% năm 1949 xuống còn 38% năm 1990 và hiện tỉ lệ này chỉ còn dưới 20%.

Như vậy, để có thể bảo đảm an ninh lượng thực, những quốc gia đông dân, đất nông nghiệp hạn chế cả về số lượng và chất lượng sẽ phải đi theo con đường thâm canh với việc đẩy mạnh dùng giống mới cho năng suất cao, phân bón vô cơ và hoá chất bảo vệ thực vật. Hay nói cách khác là đi theo con đường hóa học hóa nông nghiệp. Việt Nam cũng đã đi theo hướng này trong vài thập kỷ qua. Nhìn lại lịch sử, Việt Nam mới bắt đầu dùng phân hóa học trong một số đồn điền của Pháp vào đầu thế kỷ trước còn đa phần ruộng đồng của nông dân chỉ được bón phân chuồng, một số loại phân xanh như bèo dâu, điền thanh. Phế phụ phẩm nông nghiệp đa phần sử dụng cho nhu cầu lợp nhà, làm nhiên liệu. Phân hóa học chỉ thật sự được sửdụng rộng rãi sau khi thống nhất đất nước (1975). Tuy vậy tốc độ dùng phân bón lại tăng quá nhanh. Năm 2012 chúng ta dùng gần 12 triệu tấn phân bón một số loại và gần nửa tỉ USD cho thuốc bvtv (thuốc bảo vệ thực vật). Một điều đáng lo ngại là khuyến nông phân bón chưa được lưu ý đúng mức nên việc dùng phân bón cực kỳ tùy tiện, không hài hòa, không đúng cây, đúng đất nên hệ số dùng phân bón cực kỳ thấp. Hiện tại, hệ số dùng đạm chỉ trên 40%, phân kali khoảng 55-60%. Nhưng phân lân còn thấp hơn nhiều. Như vậy, mỗi năm đã mất đi gần một nửa lượng phân bón do rửa trôi, bay hơi hay cố định chặt. Tác hại này không những phá hại vềvật chất do lãng phí mà còn gây nên các tác hại khác như dễ bị sâu hại, lốp đổ, chất lượng sản phẩm hạ hay dưỡng phú nguồn nước. Bản thân sửdụng hữu cơ cũng có các nguy cơ gây ô nhiễm môi trường như tích lũy kim loại nặng, vi sinh vật độc hại (trứng giun, E.coli…) hay quá trình phú dưỡng nguồn nước. Ngày nay rất nhiều người vẫn lầm tưởng rằng chỉ có phân đạm hoá học mới là nguồn gây ô nhiễm nitrat. Thực ra, nitrat có thể sinh ra từ hữu cơ đất, phân chuồng, từ phế phụ phẩm nông nghiệp… Ở Runnels, bang Texas (Mỹ) người ta tìm thấy trong nước ngầm tới 3/000mg NO3/lít (theo đúng tiêu chuẩn của WHO là 50mg NO3/lít) mà nguyên do chính là do phân giải chất hữu cơ sau khi cầy vùi phế phụ phẩm. Những nghiên cứu với N15 của PPI (1996) cũng thấy đa phần NO3 bị rửa trôi lại không phải trực tiếp từ phân đạm khoáng bón vào mà là từ những chất hữu cơ. Thành quả nghiên cứu của trại Rothamsted (Anh) cũng có kết luận tương đương: nguồn NO3 rửa trôi đa số là từ chất hữu cơ và tàn dư các loại thực vật. N từ những nguồn này trong chu trình phân giải lại dễ bị rửa trôi và tích luỹ lâu hơn từ phân bón vô cơ. Vì vậy, việc bón phân hữu cơ, phế phụ phẩm nông nghiệp trong hoàn cảnh nhiệt độ cao, lượng mưa lớn sẽ là nguồn cung ứng NO3 rất rộng lớn.

Ngoài các nhân tố nêu trên, nông nghiệp hữu cơ cũng đúng trước một thách thức lớn là nông dân thờ ơ với loại hình sản xuất này do kinh phí sản xuất cao, thu nhập thấp vì thịtrường cho sản phẩm của nông nghiệp hữu cơ không ổn định, Nhà nước chưa có chính sách khuyến khích, hỗ trợ. Đó là chưa nói đến hệ thống cấp chứng chỉ chưa hoàn chỉnh, công tác quản lý chất lượng kém, sự tin cậy của người tiêu sử dụng chưa được bảo đảm.

2/ Thời cơ nbsp;

Như vậy, việc lạm dụng phân bón và hóa chất BVTV đã và đang gây nên ô nhiễm môi trường và làm giảm chất lượng nông sản. Vì vậy, phát triển nông nghiệp sinh thái vững chắc là một xu thế tất yếu nhằm tăng chất lượng sản phẩm và hạ thiểu ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe cộng đồng cũng nhưmôi trường sống. Với Việt Nam, để chuyển thành công nền sản xuất tựcấp tự túc sang 1 nền sản xuất hàng hóa, định hướng xuất khẩu thì việc an toàn thực phẩm cũng như tăng chất lượng, phục vụ đòi hỏi của thị trường trong nước và quốc tế sẽ ngày càng cần thiết.

Thời cơ cho phát triển nông nghiệp hữu cơ còn phải nói đến nhu cầu trong nước và quốc tế tăng cao đối với các sản phẩm an toàn. Chính vì thế, một vài sản phẩm hữu cơ đã có chỗ đứng vững trên thị trường như rau sạch, chè hữu cơ, thịt sạch… Tuy vậy, có thể nói nông nghiệp hữu cơ vẫn còn chiếm một tỉ trọng cực kỳ nhỏ/không đáng kể lắm trong tổng sản lượng nông nghiệp. Năm 2012, kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam đạt 27,5 tỉUSD, nhiều ngành hàng đứng trong group đầu của thế giới như gạo, cao su, cà phê, hồ tiêu, điều, chè…. Tuy vậy, đa số nông sản chúng ta xuất khẩu ở dạng thô, chưa qua chế biến, chất lượng chưa cao, vì vậy giá trị nâng cao cực kỳ thấp.

Sắp đến, trong chiến lược phát triển nông nghiệp của Việt Nam, bảo đảm an ninh lượng thực quốc gia, tăng hiệu quả sản xuất và gia tăng thu nhập của người dân là ưu tiên hàng đầu. Tuy vậy, đang có xu thế hạ diện tích gieo trồng lúa, hạ xuất khẩu gạo để gieo trồng nhiều hơn những giống lúa chất lượng, gia tăng ti lệ giống đặc sản, bản địa có chất lượng. Chúng ta không thể cứ xuất khẩu gạo với giá dưới 500USD, trong khi nhiều thành phố lại nhập về gạo trên 1000USD. Và như vậy, thời cơ trở lại trồng trọt hữu cơ với một số loại giống lúa là tồn tại.

Với điệu kiện tự nhiên và xã hội của Việt Nam, nông nghiệp hữu cơ có thời cơ cho ngành hàng rau, quả, chè núi cao, cây gia vị, cây để làm thuốc, thủy sản theo cách thức nuôi sinh thái và một tỉ lệ ổn định với cà phê, hồ tiêu. Một nhân tố cực kì quan trọng là sự quan tâm của Nhà nước và người dân đã được nâng lên đối với nông nghiệp hữu cơ. Chứng minh là, ngày 22/5/2013 Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đã chính thức được hình thành. Bộ Nông nghiệp và PTNT ban hành Tiêu chuẩn ngành 10 TCN 602-2006: Hữu cơ-Tiêu chuẩn về sản xuất Nông nghiệp Hữu cơ và chế biến vào ngày 29 tháng 12 năm 2006 là một cơ sở pháp lý quan trọng. Nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư vào sản xuất, chế biến và xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.

Mời những bạn đón đọc tiếp phần 4: Quan điếm, nội dung và biện pháp phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam

(Do nội dung bài viết tương đối dài nên Biên tập Website www.sieuthiphanthuoc.org  xin tách thành những bài tách biệt. Trong bài viết có một vài từ ngữ thay đổi từ viết tắt thành viết đầy đủ ở một vài đoạn văn nhằm mục đích quảng cáo (SEO) bài được tốt hơn. VD: từ “NNHC” một vài đoạn được sửa “thành nông nghiệp hữu cơ”. Cực kỳ mong được tác giả bài viết thông cảm!)

Nguồn: iasvn.org

– Tham khảo thêm chủ đề: Nguyễn Văn Bộ, Ngô Doãn Đảm, nông nghiệp hữu cơ

Ngoài ra, trong bài viết này, chúng tôi có đề cập đến 1 số loại dinh dưỡng và sâu bệnh, quý bà con có thể dụng các loại thuốc sau để điều trị cho cây trồng:

– Giúp null PHÂN HỮU CƠ: agrimartin super organic,

Nhấp vào nút Mua Nhanh bên dưới để đặt mua qua chúng tôi.

LIÊN HỆ MUA HÀNG : 0969.64.73.79