Nông nghiệp hữu cơ: Hiện trạng và giải pháp nghiên cứu – phát triển

Nông nghiệp hữu cơ: Hiện trạng và biện pháp nghiên cứu - phát triển (P2)

 

Nông nghiệp hữu cơ: Hiện trạng và biện pháp nghiên cứu – phát triển (P2)

Nông nghiệp hữu cơ: Hiện trạng và giải pháp nghiên cứu - phát triển

PGS.TS.Nguyễn Văn Bộ – Giám đốc Viện KH Nông nghiệp Việt Nam

PHẦN I | PHẦN 2 | PHẦN 3 | PHẦN 4|

SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ Ở VIỆT NAM 

1/ Hiện trạng sản xuất, chứng nhận chất lượng, tiêu thụ và chính sách về nông nghiệp hữu cơ 

Về sản xuất, giống như nhiều nước khác trên toàn cầu, nông dân nước ta được hiểu là đã biết trồng trọt hữu cơ theo cách truyền thống từ hàng nghìn năm nay, nhưng sản xuất nông nghiệp hữu cơ theo định nghĩa hiện tại của Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Quốc tế (IFOAM) thì còn cực kỳ mới lạ. nông nghiệp hữu cơ theo định nghĩa của IFOAM thực ra mới chỉ được bắt đầu ởViệt Nam vào cuối các năm 1990 với một số sáng kiến, đa số tập trung vào việc khai thác những sản phẩm tự nhiên, ví dụ như một số loại gia vị và tinh dầu thực vật, để xuất khẩu sang 1 số nước châu Âu (Simmons và Scott, 2008) [11].

Theo số liệu IFOAM công bố năm 2012 (FiLB và IFOAM, 2012) [7], năm 2010 Việt Nam có 19/272 ha sản xuất nông nghiệp hữu cơ được chứng nhận (tương tự 0,19% tổng diện tích trồng trọt ), cộng với 11/650 ha mặt nước nuôi trồng thủy sản hữu cơ/ sinh thái và 2/565 ha rừng nguyên sinh để khai thác những sản phẩm hữu cơ tự nhiên. Báo cáo của FiBL-IFOAM không nêu tổng giá trị xuất khẩu những sản phẩm hữu cơ của Việt Nam, nhưng theo báo cáo của Hiệp Hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam thì ước đạt khoảng 12 – 14 triệu USD. Những sản phẩm hữu cơ đang được xuất khẩu là chè, tôm, gạo, quế, hồi, tinh dầu, tuy vậy số lượng còn cực kỳ hạn chế.

Về chứng nhận chất lượng: Hiện nước ta vẫn chưa có hệ thống những tiêu chuẩn quốc gia và khung pháp lý cho sản xuất, chứng nhận và giám sát chất lượng sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Đầu năm 2007, Bộ NN – PTNT ban hành Tiêu chuẩn ngành số 10 TCN602-2006 [3] cho những sản phẩm hữu cơ tại Việt Nam, nhưng tiêu chuẩn này còn cực kỳ chung chung, đồng thời kể từ đấy đến nay vẫn chưa có chia sẻ cách cụ thể cho việc cấp chứng nhận hữu cơ, để làm nền móng cho những cơ sở sản xuất, chế biến và những đối tượng quan tâm khác thực thi. Hiện cả nước có 13 tổ chức là những nhóm nông dân sản xuất và những doanh nghiệp được những tổ chức quốc tế chứng nhận đạt tiêu chuẩn để xuất khẩu sản phẩm hữu cơ sang những nước châu Âu, Mỹ… Theo Cục Canh tác (2013) [2], BộNN – PTNT đang triển khai xây dựng qui chuẩn mới cho sản phẩm nông nghiệp hữu cơ được sản xuất tại Việt Nam, tùy theo đúng tiêu chuẩn quốc tế IFOAM. Dự định, cuối năm 2013 đầu 2014, qui chuẩn này sẽ được ban hành. BộNN – PTNT cũng đã có kế hoạch thiết lập một hệ thống giám sát và cấp chứng chỉ chất lượng cho sản phẩm nông nghiệp hữu cơ đạt tiêu chuẩn, tuy vậy lộ trình thời gian và bước đi cho việc thực thi kế hoạch này vẫn chưa được xác định. Một vài công ty tư nhân như Qualiservice,gần đây đã cố gắng năng cao năng lực dịch vụ nhằm hỗ trợ nông dân được cấp chứng chỉ chất lượng (theo hướng “hữu cơ” hoặc “ViệtGAP”) cho sản phẩm canh tác và thủy sản đạt tiêu chuẩn.

Tiêu sử dụng: Thị trường trong nước cho sản phẩm nông nghiệp hữu cơ hiện chưa phát triển. Hiện không có số liệu thống kê chi tiết về chủng loại và số lượng sản phẩm hữu cơ được sản xuất và tiêu thụ mỗi năm, tuy vậy dễ nhận ra rằng những sản phẩm rau hữu cơ là để tiêu thụ trong nước, còn những sản phẩm hữu cơ khác như chè, tôm, gạo… là để xuất khẩu. Hiện cũng không có số liệu về chủng loại và số lượng sản phẩm hữu cơ được nhập khẩu cho tiêu sử dụng trong nước, cho dù có báo mạng thông cho rằng việc nhập khẩu và tiêu sử dụng những sản phẩm như vậy đang ngày càng tăng ởTP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

Chính sách: Chính phủ Việt Nam luôn ủng hộ mạnh mẽ những nỗ lực phát triển một nền nông nghiệp vững chắc và gần gũi môi trường, tăng năng suất và sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp, trong đó có nông nghiệp hữu cơ. Tuy vậy, vẫn còn thiếu những chính sách cụ thể về định hướng chiến lược và kế hoạch hành động quốc gia, để thật sự thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hữu cơ phát triển. Gần đây đã xuất hiện một vài tín hiệu tốt về sự ủng hộ của Nhà nước cho nông nghiệp hữu cơ, cuối năm 2011 Chính phủ cho phép hình thành Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam và từ đầu năm 2012 Hiệp hội bắt đầu đi vào hoạt động. Đầu năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 01/2012/QDTTg [13] về một vài chính sách hỗ trợ việc ứng dụng quy trình thực hiện sản xuất nông nghiệp tốt trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, trong đó có nông nghiệp hữu cơ. Gần đây, Bộ NN & PTNT cam kết sự hỗ trợ có phần mạnh mẽ hơn đối với nông nghiệp hữu cơ, thông qua việc phê duyệt Chương trình khung nghiên cứu khoa học và công nghệ ngành Nông nghiệp và PTNT thời kỳ 2013-2020, trong đó có nông nghiệp hữu cơ.

Những cơ quan, tổ chức hoạt động về nông nghiệp hữu cơ:

Những cơ quan nhà nước có liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp hữu cơ gồm: Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Khoa học – Công nghệ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo… Đa số những viện và cơ sở nghiên cứu quan tâm đến nông nghiệp hữu cơ đều trực thuộc Bộ NN & PTNT, với chức năng nhiệm vụ liên quan đến đối tượng cây trồng, vật nuôi và thủy sản, gồm Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS) và những viện/ trung tâm nghiên cứu trực thuộc, Viện Chăn nuôi, những Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản (RIA1, RIA2, RIA3/..) và những trường đại học nông nghiệp.

Những tổ chức phi chính phủ và doanh nghiệp quan tâm đến nông nghiệp hữu cơ gồm: Hội Nông dân Việt Nam (VNFU) cho rau hữu cơ, Công ty ECOMART cho chè hữu cơ; Organik Đà Lạt cho rau hữu cơ; Doanh nghiệp Trang trại Xanh Viễn Phú cho gạo hữu cơ và những mô hình nuôi tôm sinh thái tại tỉnh Cà Mau… Có cực kỳ ít những cơ quan, tổchức quốc tế hỗ trợ phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam, ngoại trừ tổ chức ADDA của Đan Mạch, GTZ của Đức và gần đây chính là Tổng cục Phát triển Nông thôn RDA của Hàn Quốc.

2/ Hiện trạng nghiên cứu và đào tạo về nông nghiệp hữu cơ 

Trong khi sản xuất nông nghiệp nước ta thời gian qua đã đạt được đông đảo thành tựu lớn lớn, song lĩnh vực nghiên cứu và đào tạo để thúc đẩy phát triển nông nghiệp hữu cơ chưa nhận được sự quan tâm và đầu tư đúng mức. Thông tin về hoạt động nghiên cứu và đào tạo/huấn luyện về nông nghiệp hữu cơ được công bố chính thức trên những tạp chí trong nước và quốc tế hiện còn quá ít. Những chương trình, đề tài nghiên cứu và phát triển đã và hiện đang được triển khai đa số tập trung vào việc chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi mới và xây dựng giải pháp công nghệ sản xuất thích hợp với giống cây trồng, vật nuôi đó; sản xuất sản phẩm cây trồng có chất lượng cao và an toàn tùy theo những nguyên lý ICentimét hoặc GAP. Các thành quả nghiên cứu trên được biên soạn, tổng kết để khuyến nghị bổ sung cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ.

Lĩnh vực đào tạo huấn luyện về nông nghiệp hữu cơ cũng đang trong hiện trạng tương đương. Đại học Nông nghiệp Hà Nội gần đây đã hình thành Trung tâm thúc đẩy và nghiên cứu nông nghiệp hữu cơ (COAPS), tuy nhiên Trung tâm hiện cực kỳ thiếu nguồn lực hoạt động.

3/ Một vài mô hình nông nghiệp hữu cơ điển hình nbsp;

3/1/ Dự án ADDA – VNFU về trồng trọt hữu cơ

Với sự hỗ trợ của chính phủ Đan Mạch thông qua Tổ chức hỗ trợ phát triển nông nghiệp châu Á (ADDA), Hội Nông dân Việt Nam đã thực thi dự án này trong 7 năm, từ 2005 đến 2012/ Mục đích của dự án là nhằm gia tăng nhận thức và hiểu biết kỹ thuật về trồng trọt nông nghiệp hữu cơ cho những nhóm/ hộ nông dân, đồng thời hỗ trợ họ sản xuất được những sản phẩm hữu cơ đạt tiêu chuẩn. Người dân tham dự dự án được tập huấn về những khâu của quá trình sản xuất, thị trường, tiêu thụ và kết hợp khách hàng. Dự án đã tạo được sự quan tâm kết hợp của Hội Nông dân 9 tỉnh/ thành phố (Lào Cai, Tuyên Quang, Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Hà Nội, Hòa Bình và Hà Tĩnh). Dự án đã tổ chức được 155 lớp tập huấn cho nông dân và những đối tượng khác tham dự về trồng trọt nông nghiệp hữu cơ. Đã xây dựng được đông đảo nhóm sản xuất sản phẩm hữu cơ trên tổng diện tích 70 ha mô hình tại 9 tỉnh, đối tượng là rau, lúa, cam, vải, nho, chè và cá nước ngọt. Theo báo cáo, sản phẩm từ những mô hình được sản xuất theo đúng tiêu chuẩn sản phẩm hữu cơ, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm và phục vụ sở thích của người tiêu sử dụng đô thị. Một vài nhóm nông nghiệp hữu cơ đã hoạt động tương đối thành công, chẳng hạn như nhóm rau hữu cơ của xã Đình Bảng, Bắc Ninh đã sản xuất rau an toàn trên diện tích 5000m2, cung ứng sản phẩm liên tục cho những khu công nghiệp và nhà hàng/ khách sạn trong vùng. Nhóm rau hữu cơ tại Hà Nội và Hòa Bình liên tục cung ứng 2,5 – 3 tấn rau/ngày cho thị trường Hà Nội, bảo đảm thu nhập ổn định cho nông dân tham dự dự án.

Kết quả thành công nhất là Dự án đã xây dựng, ứng dụng thí điểm biện pháp quản lý chất lượng chuỗi giá trị hữu cơ theo Hệ thống đảm bảo cùng tham dự (Participatory Guarantee System-PGS) với 25 nhóm nông dân ở Sóc Sơn, Hà Nội và Lương Sơn, Hòa Bình và những công ty tư nhân tham dự dự án, để sản xuất rau và một số sản phẩm nông nghiệp hữu cơ khác. Dự án chứng nhận chất lượng sản phẩm hữu cơ căn cứ vào việc xem xét mức độ tham dự tích cực của những đối tác và trên cơ sở sự tin cậy, mạng lưới hoạt động xã hội và chia sẻ hiểu biết cùng nhau (IFOAM PGS Task Force, 2008). Dự án đã xây dựng và phát hành Sổ tay chia sẻ cách thực hiện PGS – Việt Nam (version 3) bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh.

Việc ứng dụng hệ thống khống chế chất lượng theo PGS đã tỏ ra có hiệu quả trong việc giúp đỡ nhiều nhóm nông dân thực hiện những nguyên lý và yêu cầu của biện pháp PGS, và trên thực tế nhiều nhóm hộ nông dân đã sản xuất và tiêu thụ tương đối thành công sản phẩm rau hữu cơ. Một trong những ví dụ thành công này là Nhóm hộ nông dân ở xã Tân Đức tỉnh Phú Thọ. Xã hình thành tổ sản xuất rau hữu cơ từ tháng 1/2008, đến năm 2010/ Nhóm đã quy hoạch được 3 vùng sản xuất rau hữu cơ với tổng số 198 hộ nông dân tham dự. Nhóm nông dân sản xuất rau hữu cơ của xã hiện đã có thể tự vận hành được công việc, từ khâu chọn lựa khu vực trồng cây phù hợp (bao gồm cảviệc thuê phân tích chất lượng mẫu đất và mẫu nước), chuẩn bị phân hữu cơ hoai mục, thực thi nghiêm quy trình để sản xuất và quản lý, truy nguyên nguồn gốc sản phẩm, phát triển mạng lưới thị trường và phục vụ đòi hỏi vềchất lượng theo đúng tiêu chuẩn PGS.

3/2/ Ecolink-Ecomart với sản phẩm chè và rau hữu cơ

Ecolink được hình thành năm 2003 nhằm hỗ trợ những hộ nông dân nhỏ sản xuất và tiêu thụ chè. Ecomart Việt Nam ngày nay được tạo thành từ việc sáp nhập giữa Ecomart cũ và Ecolink. Ecomart cũ được hình thành thông qua thực thi 1 dự án do NZAID tài trợ trong thời kỳ 2002 – 2006, nhằm hỗ trợ Bộ NN-PTNT xây dựng bộ tiêu chuẩn sản phẩm nông nghiệp hữu cơ quốc gia (Tiêu chuẩn ngành 10 TCN602-2006). Hoạt động chính của Ecolink-Ecomart ngày nay là sản xuất chè hữu cơ để xuất khẩu sang thị trường Âu và Mỹ. Thông thường thời gian đầu Công ty sản xuất chè hữu cơ tại tỉnh Thái Nguyên, gặp nhiều khó khăn vì nông dân tại đây quen với tập quán trồng chè thâm canh, vì vậy họ không tuân theo nghiêm ngặt quy trình để sản xuất chè hữu cơ. Do đó, công ty đã chuyển vùng sản xuất về huyện Bắc Hà của tỉnh Lào Cai (300ha) và huyện Quang Bình của tỉnh Hà Giang (500ha). Đây chính là 2 huyện có địa hình núi cao, khí hậu mát mẻ và hoàn toàn cách ly với những khu vực trồng chè thâm canh truyền thống. Công ty đã xây dựng 2 nhà máy chè: một tại Bắc Hà (với công suất 15 tấn búp tươi/ngày) và một tại Quang Bình (20 tấn búp tươi/ngày, tương tự 4 tấn búp khô/ngày). Sản phẩm chè hữu cơ của công ty được đóng gói thành bao cỡ30-40 kilogam để xuất khẩu sang Châu Âu và Mỹ, từ đấy sẽ được đối tác nước sở tại đóng thành những gói nhỏ gắn logo và quy cách thích hợp với thị trường trong nước nước đó.

Những đặc tính đặc biệt nhất trong hoạt động sản xuất chè hữu cơ của Ecolink-Ecomart là: Chỉ dùng một giống chè địa phương Shan Tuyết, sản xuất với những hộ nông dân đã đăng ký và được đào tạo. Những trang trại chè chỉ bón phân hữu cơ ủ mục, không sử dụng phân khoáng và không xịt thuốc trừ sâu hóa học. Công ty thu mua chè búp tươi đạt chuẩn về chế biến tại nhà máy và theo quy trình của công ty. Sản phẩm của Công ty đã được cấp giấy chứng nhận hữu cơ của tổ chức ICEA (Ialia) từ năm 2009/ Chiến lược của công ty trong việc bảo đảm chất lượng là: cố gắng thỏa mãn tiêu chuẩn chất lượng của từng đối tượng khách hàng, thông qua việc ứng dụng nghiêm ngặt qui trình khống chế chất lượng và thanh tra nội bộ, tiến tới được cấp chứng chỉ chất lượng theo đúng tiêu chuẩn của mỗi đối tượng khách hàng.

Bên cạnh chè hữu cơ là sản phẩm chính, Ecolink – Ecomart hiện đang sản xuất và tiêu thụ 20 chủng loại rau hữu cơ, phục vụ nhu cầu rau xanh giao tận nhà cho khoảng 2000 khách hàng (trong đó có khoảng 500 khách hàng liên tục ), bao gồm cả việc mua bán qua mạng. Với sản phẩm rau hữu cơ, công ty đang ứng dụng biện pháp PGS để khống chế và bảo đảm chất lượng. Công ty cho thấy giá tiêu thụ chè hữu cơ sang châu Âu và Mỹ đạt khoảng 5,5 – 6,0 USD/ kilogam so sánh với 2,2 – 3,0 USD cho 1 kilogam chè thường xuất sang thị trường Ai Cập. Sản phẩm chè hữu cơ của công ty được tiêu thụ trong nước chưa đáng kể, có thể do người tiêu sử dụng chưa đồng ý giá đắt.

3/3/ Organik Đà Lạt với sản phẩm rau hữu cơ

Công ty Organik Đà Lạt đóng tại phường Xuân Thọ, thành phố Đà lạt, tỉnh Lâm Đồng, là địa bàn tuyệt vời để sản xuất rau theo biện pháp hữu cơ. Chủ công ty là TS. Nguyễn Bá Hùng, bắt đầu sự nghiệp bằng việc nghiên cứu cách sản xuất và tiêu thụ cây con rau từ năm 1997, sản xuất rau trên đất thuê từ năm 2003 và mua đất lập trang tại sản xuất rau từtháng 10-2006/ Ý tưởng của ông Hùng về sự việc hình thành công ty bắt nguồn từ việc nhìn thấy có rất nhiều khách hàng và nhà hàng, khách sạn 5 sao ở Đà Lạt cần mua những sản phẩm rau hữu cơ được sản xuất ngay tại địa phương. Với ý tưởng đó, ông Hùng đã hình thành và phát triển Organik Đà Lạt tương đối thành công. Công ty cho thấy hiện đang sản xuất khoảng 150 chủng loại rau một số loại, cung ứng cho nhiều khách sạn thượng hạng tại những thành phố: Đà Lạt, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hà Nội, Công ty cổ phần suất ăn hàng không của hãng Pacific và khoảng 1000 khách hàng ngoại quốc đang làm việc tại Việt Nam. Công ty cũng đang xuất khẩu sản phẩm rau hữu cơ sang thị trường Đài Bắc và một vài nước láng giềng.

Organik Đà Lạt có trang thiết bị tương đối tân tiến cho sản xuất rau hữu cơ, bao gồm nhà lưới, thiết bị xử lý rác thải và xử lý nước tưới. Công ty dùng phân hữu cơ, hoàn toàn không dùng hóa chất và thuốc bvtv (thuốc bảo vệ thực vật) có xuất xứ hóa học, thực hiện tốt những nguyên lý và biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM), luân canh cây trồng để loại trừ cây ký chủ nguồn gây bệnh, sử dụng các giống cây hoa có màu sắc để xua đuổi côn trùng…. Công ty có hệ thống sổ sách ghi chép chi tiết về quá trình sản xuất mỗi sản phẩm, nhằm bảo đảm sự tin cậy cho khách hàng và độ an toàn của sản phẩm được cung cấp. Công ty đã được cấp chứng chỉ HACCP cho sản phẩm rau hữu cơ do HACCP của Hà Lan cấp. Tuy nhiên, hiện tại công ty chưa có kế hoạch rõ rệt (cho dù cực kỳ muốn) về sự việc mở rộng qui mô sản xuất, do thiếu vốn để đầu tư thiết bị và bảo đảm khống chế chất lượng sản phẩm 1 cách chặt chẽ. Công ty hiện cũng có ý tưởng sẽ triển khai nghiên cứu và phát triển sản phẩm gạo, đường và muối hữu cơ.

3/4/ Viễn Phú Green Farm với sản phẩm gạo hữu cơ

Tuy đã biến thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, lĩnh vực sản xuất lúa gạo hữu cơ hiện vẫn còn cực kỳ mới lạ đối với Việt Nam. Công ty Viễn Phú đã đi đầu trong việc gia công, chế biến và sản xuất gạo hữu cơ để xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Trang trại của công ty được đặt tại huyện U Minh, tỉnh Cà Mau trên diện tích 320 hecta, trong đó 200 ha để trồng trọt cây trồng. Công ty bắt đầu sản xuất lúa hữu cơ với 80 ha trong vụ hè thu 2011 và khoảng 200 ha năm 2012/ Lúa hữu cơ được sản xuất theo quy trình riêng của công ty, bao gồm cả giống lúa do công ty tuyển chọn, dùng phân hữu cơ Agrostim nhập khẩu (được Viện Nghiên cứu Nguyên vật liệu hữu cơ của Mỹ cấp chứng chỉ) để sản xuất, không dùng phân hóa họcthuốc trừ sâu hóa học trong suốt quá trình sản xuất. Sản phẩm lúa gạo hữu cơ của công ty được những tổ chức chứng nhận quốc tế theo đúng tiêu chuẩn EU và USDA kiểm tra, giám sát và được biết đến.

Công ty hiện có kế hoạch đầu tư trang thiết bị và cải tạo ruộng đồng, mở rộng quy mô sản xuất lúa hữu cơ trên tất cả diện tích 320 ha đất của công ty và hợp đồng với nông dân trong vùng trên diện tích 10/000-20.000 ha trong khoảng thời gian tới. Sản phẩm chính của công ty là gạo hữu cơ đạt tiêu chuẩn chất lượng theo đúng tiêu chuẩn của châu Âu và Mỹ, có những thương hiệu “Hoa Sữa trắng”, “Hoa Sữa đen”, “Hoa Sữa Tím”, “Hoa Sữa Đỏ”… Tuy nhiên, hiện công ty vẫn còn gặp nhiều khó khăn về kỹ thuật, về sự việc xác định đúng nhu cầu sở thích của khách hàng, việc bảo đảm ổn định và duy trì chất lượng đạt tiêu chuẩn.

Mời những bạn đón đọc tiếp phần 3: Thời cơ và thách thức cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam

(Do nội dung bài viết tương đối dài nên Biên tập Website www.sieuthiphanthuoc.org  xin tách thành những bài tách biệt. Trong bài viết có một vài từ ngữ thay đổi từ viết tắt thành viết đầy đủ ở một vài đoạn văn nhằm mục đích quảng cáo (SEO) bài được tốt hơn. VD: từ “NNHC” một vài đoạn được sửa “thành nông nghiệp hữu cơ”. Cực kỳ mong được tác giả bài viết thông cảm!)

Nguồn: iasvn.org

– Tham khảo thêm chủ đề: Nguyễn Văn Bộ, Ngô Doãn Đảm, nông nghiệp hữu cơ

Ngoài ra, trong bài viết này, chúng tôi có đề cập đến 1 số loại dinh dưỡng và sâu bệnh, quý bà con có thể dụng các loại thuốc sau để điều trị cho cây trồng:

– Giúp hạn chế chết CÂY CON: elcarin, sunshi, thần y trị bệnh, sat, kasumin, siêu vi khuẩn agri-a, kinkinbul, athuoctop 480sc, ridomil gold 68wp,

– Giúp diệt trừ CÔN TRÙNG: fendona 10sc, jenifer 125sc, permecide 50ec, sk enspray 99ec, thiacyfos 600ec, thifenapyr 350sc, azadi gold neem, thimida 350wg,

– Giúp null PHÂN HỮU CƠ: agrimartin super organic,

– Giúp trị vi khuẩn VI KHUẨN : avalon 8wp, kasumin 2sl, k.susai 50wp, kufic 80sl, rorai 21wp, dũng sĩ diệt khuẩn, visen 20sc, daone 25wp, yomisuper 22sc, actinovate 1sp,

Nhấp vào nút Mua Nhanh bên dưới để đặt mua qua chúng tôi.

LIÊN HỆ MUA HÀNG : 0969.64.73.79