Nội dung chính
Nông nghiệp hữu cơ: Hiện trạng và biện pháp nghiên cứu – phát triển (P4)
PGS.TS.Nguyễn Văn Bộ – Giám đốc Viện KH Nông nghiệp Việt Nam
| PHẦN I | PHẦN 2 | PHẦN 3 | PHẦN 4|
QUAN ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ Biện pháp PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ Ở VIỆT NAM
Có thể nói nông nghiệp hữu cơ là cách thức sản xuất đỏi hỏi các đòi hỏi khắt khe với người sản xuất và vì vậy thị trường cực kỳ hạn chế. Trông vào sự phát triển của nông nghiệp hữu cơ toàn thế giới với trên 160 quốc gia và vùng lãnh thổ, song có thể thấy rất rõ ràng, thị trường nông nghiệp hữu cơ tập trung ở những nước phát triển, dân số không cao, còn sản xuất hữu cơ lại chủyếu ở những nước đất rộng, người thưa, không chịu sức ép về dân số, an ninh lương thực. Để có thể sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam cực kỳ cần quan điểm rõ rệt và hệ thống biện pháp cụ thể.
1/ Quan điểm
i) Việt Nam là đất nước đất trồng trọt trên đầu người thuộc loại thấp nhất trên toàn cầu, dân số tăng nhanh, vì vậy phát triển nông nghiệp cần cân đối, vững chắc, trong đó sản xuất theo hướng thâm canh, hóa học hóa vẫn là chủyếu.
ii) Nắm bắt thời cơ phát triển cho nông nghiệp hữu cơ ởViệt Nam với sự chọn lựa chuẩn xác chủng loại sản phẩm và vùng sản phẩm phù hợp cho những thị trường xác định. Bài học thành công của nông nghiệp Việt Nam thời gian qua là biết khai thác ưu thế so sánh về điều kiện tự nhiên, xã hội. Vì vậy, chúng ta nên tập trung sản xuất sản phẩm hữu cơ với những loài bản địa, gắn với nông nghiệp du lịch, sinh thái.
iii) Phát triển nông nghiệp hữu cơ là quá trình, yêu cầu sự quan tâm ủng hộ của Nhà nước và những địa phương trong qui hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ chế biến và thương mại sản phẩm. Thịtrường là yếu tốquyết định nhất đến sự thành bại của nông nghiệp hữu cơ Việt Nam.
2/ Những nội dung cần sự quan tâm trong tổ chức sản xuất nông nghiệp hữu cơ
Để phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam thành công, theo chúng tôi, cực kỳ cần quán triệt những quan điểm nêu trên và tập trung vào những nội dung sau:
i) Bảo vệ và nâng cấp độ phì nhiêu đất đai, trong đó có những biện pháp ổn định hàm lượng hữu cơ trong đất (nhất là đất đồi núi) do hữu cơ không những nâng cấp cấu trúc đất, đẩy mạnh khả năng dưỡng ẩm, giữ dinh dưỡng mà còn hạ những nhân tố độc hại thông qua quá trình tạo phức.
ii) Đẩy mạnh chu trình hữu cơ với việc sửdụng công nghệ sinh học nhằm khai thác nhiều nhất nguồn phân chuồng, phân xanh, phế phụ phẩm nông nghiệp cũng như những nguồn hữu cơ khác để có thể bảo đảm cung ứng dưỡng chất cho cây trồng đủ về lượng và hài hòa về tỉ lệ. Quy tắc trả lại phế phụ phẩm được biết đến như là quy tắc tốt nhất cho phép hoàn trả đúng các dưỡng chất (nhất là vi lượng) mà cây trồng đó đã lấy đi, trong khi phân bón khó có thể phục vụ được.
iii) Thực thi tối ưu nhất chế độ luân canh nói chung và với cây bộ đậu nói riêng nhằm khai thác khả năng cộng sinh đạm sinh học cũng như hạn chế phát sinh sâu hại, phát huy ưu thế so sánh của điều kiện khí hậu, khí hậu.
iv) Ngoài những việc dùng giống bản địa, cổ truyền cần dùng những giống vừa có chất lượng và năng suất cao lại có thể kháng sâu hại để gia nâng cao khả năng huy động dinh dưỡng từ đất và phân bón. Đẩy mạnh việc ứng dụng IPM và dùng thuốc bvtv (thuốc bảo vệ thực vật) sinh học, thiên địch.
v) Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, thủy sản sinh thái tạo tiền đề cho sự phát triển nông nghiệp ổn định (thông qua sửdụng sản phẩm canh tác làm thức ăn chăn nuôi, thủy sản và cung ứng phân hữu cơ). Những mô hình canh tác -chăn nuôi-thủy sản vững chắc cần phải được khuyến khích.
vi) Ở các nơi có điều kiện, khai thác nhiều nhất nguồn nước phù sa để tưới cho cây trồng. Biện pháp này vừa bảo đảm cung ứng dinh dưỡng từ cặn phù sa, vừa cho phép nâng cấp môi trường và làm trẻ hóa đất.
3/ Biện pháp nbsp;
i) Về chính sách
Có thể nói sản xuất nông nghiệp hữu cơ không còn là vấn đề kỹ thuật mà là vấn đề chính sách. Chính phủ và những Bộ, Ngành có liên quan đến nông nghiệp hữu cơ, như BộNông nghiệp và PTNT, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Y tế cần sớm ban hành những chính sách cụ thể, khả thi nhằm hỗ trợ nông nghiệp hữu cơ phát triển, những chính sách nên tập trung vào:
– Qui hoạch và bảo vệ đất đai và nguồn nước hiện chưa hoặc ít bị ô nhiễm và còn phù hợp cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ theo hướng hàng hóa.
– Nền sản xuất nông nghiệp hữu cơ Việt Nam còn quá nhỏ nhỏ, những doanh nghiệp vừa nhỏ về qui mô, vừa ít về số lượng và hầu hết chưa nhận được sự quan tâm và đầu tư của Nhà nước nên chưa có lãi, chưa cuốn hút những nhà đầu tư. Đó là chưa kể mức độ rủi ro cao về thị trường với ngành hàng này, vì vậy, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn sản xuất, ưu đãi trong giao và cho thuê đất và miễn hạ thuế thu nhập cho những tổ chức, cá nhân tham dự sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Đồng thời trong khoảng thời gian đầu có thể cần đến quĩ bảo hiểm sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
– Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, qui chuẩn sản xuất, chế biến, chứng nhận chất lượng, thanh tra, giám sát liên quan đến nông nghiệp hữu cơ.
– Đa phần những sản phẩm hữu cơ tiềm năng của Việt Nam đều nằm ở những khu vực khó khăn về giao thông, trong điều kiện bảo quản, tạm trữ, chế biến không thuận lợi, vì vậy, Nhà nước cần hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng cho chế biến phân bón hữu cơ, phân sinh học, vi sinh vật tại chỗ để hạ kinh phí vận chuyển.
– Giúp đỡ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường và quảng cáo sản phẩm.
– Sản xuất nông nghiệp hữu cơ cũng cần những nhân tố đầu vào bảo đảm. Vì vậy, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh liên quan đến phân bón hữu cơ, sinh học, vi sinh vật, chế phẩm bảo vệ thực vật sinh học cũng cần phải được quan tâm hỗ trợ trong sản xuất. Tất nhiên, cần có sự kết hợp giữa doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp hữu cơ với những doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh phân bón, thuốc bvtv (thuốc bảo vệ thực vật) liên quan.
ii) Về nghiên cứu và đào tạo
– Thị trường là đòi hỏi quan trọng nhất cho phát triển nông nghiệp hữu cơ, vì vậy Nhà nước cần giao Bộ Thương mại qua hệ thống thương vụ tìm hiểu thêm thị trường, đòi hỏi về chủng loại sản phẩm, tiêu chuẩn chất lượng, số lượng sản phẩm nông nghiệp hữu cơ để làm giúp doanh nghiệp đàm phán ký phối hợp đồng xuất khẩu.
– Tổ chức nghiên cứu hệ thống chính sách, qui chuẩn, tiêu chuẩn, chứng nhận chất lượng và thương mại sản phẩm nông nghiệp hữu cơ của những nước để rút ra bài học cho Việt Nam trong việc hoạch định chiến lược phát triển và chọn lựa ngành hàng phù hợp.
– Nhận xét toàn diện về kinh tế, tổ chức, quản lý, thương mại sản phẩm nông nghiệp hữu cơ của những doanh nghiệp hiện đang sản xuất để tìm ra những khó khăn, vướng mắc lời khuyên biện pháp thích hợp cho phát triển nông nghiệp hữu cơ trong khoảng thời gian tới.
– Ở trên cơ sở tài liệu của nước ngoài, kinh nghiệm thực tiễn của Việt Nam cần sớm biên soạn tài liệu kỹ thuật – khuyến nông phục vụ sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
– Về đào tạo, những Trường Đại học Nông nghiệp sớm mở thêm môn học về sản xuất nông nghiệp hữu cơ tiến tới tạo thành chuyên ngành đào tạo về nông nghiệp hữu cơ trong tương lai. Bằng nguồn chi phí trong nước và thông qua dựán HTQT, những viện nghiên cứu và trường đại học chọn lựa gửi sinh viên đi đào tạo thạc sỹ/ tiến sỹ về lĩnh vực này ở nước ngoài.
iii) Về đẩy mạnh năng lực hoạt động của Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam
Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ cần thông qua những doanh nghiệp có mô tạo thành công, giúp họ quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, qua đó gia tăng sự hiểu biết và quan tâm của toàn xã hội, nhất là những cơ quan quản lý đến sản phẩm của nông nghiệp hữu cơ.
Hiệp hội cần xây dựng mạng lưới cộng tác viên trong và ngoài nước, những tổ chức NGO để update thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tiếp cận xu thế phát triển nông nghiệp hữu cơ của những nước, những công nghệ mới và nhất là những qui chuẩn, tiêu chuẩn mà mỗi nước nhập khẩu đặt ra.
Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ cũng cần hướng đến gần 90 triệu dân trong nước và tương lai không xa là 130 triệu. Nhu cầu về sản phẩm an toàn, chất lượng, được chứng nhận và cam đoan truy xuất được nguồn gốc là rất rộng lớn, nhất là tại những thành phồ lớn, người có thu nhập cao, những nhà hàng, khách sạn, bệnh viện, trường mẫu giáo, Việt kiều cũng như người nước ngoài sống tại Việt Nam.
iv) Về hợp tác quốc tế
Với một nền sản xuất nông nghiệp hữu cơ tân tiến, có chứng nhận thì Việt Nam là nước đi sau cực kỳ nhiều quốc gia. Vì vậy, việc trao đổi kinh nghiệm, đào tạo nguồn lực, hỗ trợ phát triển thị trưởng và khống chế chất lượng cực kỳ cần sự hỗ trợ của những quốc gia, tổ chức quốc tế. Chúng ta có thuận lợi là IFOAM đang quan tâm đến những nước đang phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ, đề nghị IFOAM hỗ trợ Việt Nam trong việc hoàn thiện thể chế, lời khuyên chính sách, đẩy mạnh năng lực về khống chế chất lượng. Giúp những doanh nghiệp Việt Nam giao lưu, học hỏi những doanh nghiệp có lịch sử phát triển lâu đời và thành công tại những quốc gia khác nhau.
Đề nghị kết nối trang web của Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam với trang web của IFOAM để nông nghiệp hữu cơ Việt Nam được tiếp cận nhiều hơn và nhanh hơn với cộng đồng quốc tế.
KẾT LUẬN
Từ nhiều thế kỷ nay, nông dân Việt Nam đã có tập quán dùng phân hữu cơ như phân chuồng, phân xanh, phân bắc và phế phụ phẩm nông nghiệp. Tuy vậy, do sức ép ngày càng tăng của dân số, đất trồng trọt hạn hẹp… nền nông nghiệp hữu cơ với lịch sử hàng ngàn năm đã không thể bảo đảm an ninh lượng thực cho quốc gia và vì vậy, nông nghiệp Việt Nam đã phải chuyển từ một nền nông nghiệp dựa trên đất, dựa trên hữu cơ sang 1 nền nông nghiệp dựa trên phân bón (đa số là vô cơ). Chính phân bón hóa học như là một nhân tố quan trọng của thâm canh đã góp thêm phần làm nên các thành tựu lớn lớn của nông nghiệp thời gian qua, nhất là trong giai đoạn đổi mới.
Tuy vậy, do đã xuất hiện các thời cơ mới cho sản phẩm nông nghiệp hữu cơ trong khuôn khổ khu vực và thế giới, nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam bắt đầu có điều kiện phát triển mặc dù trước mắt còn cực kỳ nhiều khó khăn và thách thức. Chúng tôi cũng hy vọng rằng với sự giúp đỡ của những tổ chức Quốc tế, nhất là IFOAM, trong việc huấn luyện, cung ứng công nghệ và nhất là tiếp cận thị trường và sự ủng hộ mạnh mẽ, thiết thực của Nhà nước sẽ thúc đẩy nông nghiệp hữu cơ Việt Nam từng bước phát triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Bộ NN-PTNT (2007), Tiêu chuẩn ngành số10 TCN602-2006 về sản xuất và chế biến những sản phẩm nông nghiệp hữu cơ Việt Nam.
2/ Bộ NN-PTNT (2013): Quyết định số1259 QĐ-BNN-KHCN của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT phê duyệt Chương trình khung nghiên cứu khoa học và công nghệ ngành Nông nghiệp và PTNT thời kỳ 2013-2020.
3/ Thủ tướng Chính phủ, 2012/ Quyết định số 01/2012/QD-TTg về một vài chính sách hỗ trợ việc ứng dụng quy trình thực hiện sản xuất nông nghiệp tốt trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.
4/ Balu L. Bumb and Carlos A. Baanante. 1996/ The Role of Fertilizer in Sustaining Food Security and Protecting the Environment lớn 2020. International Food Policy Research Institute, Washing ton D.C.,.
5/ Nguyễn Văn Bộ, 2002/ Nông nghiệp hữu cơ ởViệt Nam: Thách thức và thời cơ. Báo cáo Hội thảo: Sản xuất và xuất khẩu nông sản hữu cơ. Hà Nội, 17 tháng 7 năm 2002/
6/ Nguyễn Văn Bộ, 1999/ Các nguy cơ ô nhiễm môi trường từ phân bón. Thành quả nghiên cứu khoa học. Viện Thổ nhưỡng nông hoá, Q.3/ NXB Nông nghiệp, 1999/
7/ Ngo Doan Dam, Doan Xuan Canh, Nguyen Thi Thanh Hecta, Nguyen Van Tan, Nguyen Dinh Thieu, 2012: Vietnam Organic Agriculture:An overview on current status and some success activities. Proceeding of International Workshop on World Organic agriculture status and prospective. Published by Korean Association of Organic Agriculture, pp 346-360.
8/ Nguyễn Bá Hùng, 2012: Phương pháp canh tác rau và sản phẩm hữu cơ tại công ty ORGANIC Đà Lạt. Kỷ yếu Hội thảo “Thúc đẩy nghiên cứu và phát triển nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam”, Viện KHNN Việt Nam tháng 2 năm 2012, trang 25-45/
9/ I. J. Kimmo. Environmentally Friendly Fertilization through Balanced Fertilizer Use. Paper prepared for Regional FADINAP Workshop, Hue, Vietnam, 8-10 November 1995/
10/ Thân Duy Ngữ (2012). Kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất chè hữu cơ của công ty ECOMARD.Kỷ yếu Hội thảo “Thúc đẩy nghiên cứu và phát triển nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam”, Viện KHNN Việt Nam tháng 2 năm 2012/
11/ Từ Thị Tuyết Nhung, 2012: Phát triển hệ thống bảo đảm PGS trong dự án Nông nghiệp Hữu cơ- ADDA. Kỷ yếu Hội thảo“Thúc đẩy nghiên cứu và phát triển nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam”, Viện KHNN Việt Nam tháng 2 năm 2012, trang 13-18/
12/ FiLB and IFOAM, 2012: The World Organic Agriculture: Statistics and emerging trends 2012/
13/ ADDA -VNFU Project, at https://sites.google.com/site/pgsvietnam/
14/ ECOMART at www.ecomart.vn
15/ CAMIMEX, 2012: Qui trình nuôi tôm sinh thái và hệ thống khống chế chất lượng nội bộ trong Dự án nuôi tôm sinh thái tại tỉnh Cà Mau, Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo “Thúc đẩy nghiên cứu và phát triển nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam”, Viện KHNN Việt Nam tháng 2 năm 2012, trang 130 – 133/
16/ Organik Dalat at http://www.organikvn.com
17/ Simmons and Scott, 2008: Organic agriculture and “safe” vegetable in Vietnam: Implications for agro-food system sustainability. Available online at: http://oacc.info/Docs/Guelph2008SocialSciences/Simmons%20and%20Scott%20 (2008).pdf
18/ Vien Phu Green Farm at http://vienphugreenfarm.com
(Do nội dung bài viết tương đối dài nên Biên tập Website www.sieuthiphanthuoc.org xin tách thành những bài tách biệt. Trong bài viết có một vài từ ngữ thay đổi từ viết tắt thành viết đầy đủ ở một vài đoạn văn nhằm mục đích quảng cáo (SEO) bài được tốt hơn. VD: từ “NNHC” một vài đoạn được sửa “thành nông nghiệp hữu cơ”. Cực kỳ mong được tác giả bài viết thông cảm!)
– Tham khảo thêm chủ đề: Nguyễn Văn Bộ, Ngô Doãn Đảm, nông nghiệp hữu cơ
Ngoài ra, trong bài viết này, chúng tôi có đề cập đến 1 số loại dinh dưỡng và sâu bệnh, quý bà con có thể dụng các loại thuốc sau để điều trị cho cây trồng:
– Giúp null PHÂN HỮU CƠ: agrimartin super organic,
Nhấp vào nút Mua Nhanh bên dưới để đặt mua qua chúng tôi.
LIÊN HỆ MUA HÀNG : 0969.64.73.79