Những điều cần biết về Bệnh đạo ôn

BỆNH ĐẠO ÔN

 

Đạo ôn

Tên khoa học: Pyricularia oryzae Cav. hay P. grisea (Cook )Sacc.

Bệnh đạo ôn là một trong các bệnh phổ biến và gây bệnh có ý nghĩa kinh tế nhất ở những nước trồng lúa trên toàn cầu. Bệnh được tìm thấy giai đoạn đầu ở Italia năm 1560, tiếp đến là ở Trung Quốc năm 1906, và Ấn Độ năm 1913,vvv….Ở nước ta, Vincens (người pháp) đã phát hiện một vài bệnh ở Miền nam ở Miền nam vào năm 1921/ Nam 1951, Roger (người pháp) đã xác định sự xuất hiện và gây bệnh của bệnh ở vùng Miền bắc..

Ngày nay, bệnh đạo ôn hại lúa đã phát sinh phá hại rất nghiêm trọng nhiều nơi ở bắc bộ nước ta như Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình, Bắc Giang. Vụ đông xuân 1991 – 19922 ở bắc bộ diện tính lúa bi bệnh đạo ôn lá là 292/0000 hecta, trong đó có tới 241/000 ha bị đạo ôn phá lên cổ bông. Ở miềm nam, diện tích bị nhiễm bệnh đạo ôn năm 1992 là 165/000 hecta.

Theo Padmanabban (1965) khi lúa đạo ôn cổ bông 1% thì năng suất có khả năng bị hạ từ 0,7 – 17,4% phụ thuộc vào những nhân tố có liên quan tâm.

Bệnh đạo ôn

1/ Dấu hiệu bệnh đạo ôn trên lúa

1/1/ Dấu hiệu bệnh đạo ôn lúa trên mạ

Bệnh đạo ôn

+ Vết bệnh trên mạ ban đầu hình bầu dục sau hình thành hình thoi nhỏ hoặc dạng tương đương hình thoi, màu nâu hồng hoặc nâu vàng.

+ Khi Bệnh nặng, từng đám vết bệnh kế tiếp nhau khiến cho cây mạ có thể héo khô hoặc chết.

1/2/ Dấu hiệu vết bệnh đạo ôn trên lá lúa

+ Thường thì vết bệnh đạo ôn trên lá lúa ban đầu là các chấm nhỏ màu xanh lục hoặc mờ vết dầu, tiếp đến chuyển sang màu xám nhạt.

+ Trên những giống lúa mẫn cảm những vết bệnh lớn hình thoi, dầy màu nâu nhạt, có khi có quầng màu vàng nhạt, phần ở giữa vết bệnh có màu nâu xám.

+ Trên những giống chịu đựng, vết bệnh là những vết chấm cực kỳ nhỏ hình dáng không đặc thù.

1/3/ Dấu hiệu vết bệnh ở cổ bông, cổ gié, và trên hạt lúa

+ Những vị trí khác nhau của bông lúa đều có khả năng bị bệnh với những dấu hiệu những vết màu nâu xám hơi teo thắt lại.

+ Vết bệnh trên cổ bông xuất hiện sớm thì bông lúa bị lép, nếu bệnh phát triển muộn khi hạt đã vào chắc thì gây hiện tượng gẫy cổ bông.

+ Vết bệnh ở hạt không định hình, có màu nâu xám hoặc nâu đen. Nấm ký sinh ở vỏ trấu và có thể ở phía bên trong hạt. Hạt giống bị nhiễm bệnh là nguồn lây bệnh từ vụ này qua vụ khác.

2/ Nguyên nhân tạo bệnh đạo ôn trên lúa

– Nguyên nhân gây bệnh là nấm Pyricularia oryzae Cav. hay P. grisea (Cook )Sacc..

– Cành bào tử phân sinh hình trụ, đa bào không phân nhánh, đầu cành nhọn và hơi gấp khúc. Nấm thường tạo ra cacsc cụm cành từ 3 – 5 chiếc.

– Bào tử phân sinh hình quả lê hoặc hình nụ sen, thông thường có từ 2 – 3 ngăn ngang, bào tử không có màu, kích cỡ trung bình của bào tử nấm là 19 – 23 x 10 – 12 micromet.

– Bào tử của nấm cực kỳ nhỏ, có thể lây lan và bay cao đến 24 m, thậm chí đến 10/000 m để phát tán cho những ruộng lân cận trong khu vực. Nấm sinh trưởng tốt trong hoàn cảnh mát từ 24-28 độ C, ẫm độ cao >80%, biên độ nhiệt giữa ngày và đêm cao sẽ dễ phát sinh thành dịch.

– Bào tử nấm nảy mầm khi gặp lớp nước tự do trên lá hay không khí bảo hòa nước; ở 240C bào tử cần 6 giờ, ở 280C mất 8 giờ; vượt quá 280C bào tử phát triển kém. Bào tử thâm nhập vào tế bào lá bằng phương pháp mọc thành đĩa áp, chọc thủng vách tế bào lá lúa.

– Bên cạnh đó, bào tử còn tiết ra độc tố pyricularin gây độc cho cây (Ou, 1983). Cây lúa là ký chủ chính, bệnh có thể lưu tồn trên những cây ký chủ phụ mọc quanh ruộng như những loài cỏ lồng vực, đuôi phụng, cỏ chỉ, lúa ma, lúa rày-lúa chét…

3/ Đặc tính phát sinh, phát triển bệnh và phát tán của bệnh đạo ôn trên lúa

– Điều kiện thời tiết thời tiết:

Bệnh này thường phát triển mạnh trong điều kiện thời tiết mát mẽ, ấm độ cao, mưa nhỏ nối dài, đêm sương mù nhiều.

Đặc biệt trong vụ lúa Đông Xuân tại vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long vào tháng giêng-tháng hai dương lịch, bệnh này sẽ gây bệnh trên diện tích rộng trùng vào lúc lúa đứng cái đến trổ. Bà con trồng lúa tại những khu vực liên tục bị nhiễm bệnh cháy lá hàng năm như Tiền Giang, An Giang, Đồng Tháp và Sóc Trăng cần chú ý có giải pháp phòng chống.

– Môi trường khô hạn:

Môi trường khô hạn làm cây lúa thiếu hụt nước, tiến trình trao đổi chất kém, khả năng hấp thụ dinh dưỡng yếu, cây lúa không chống chọi được bệnh. Ở các khu vực cao nguyên; môi trường khô hạn thiếu hụt nước phối hợp với đêm sương mù nhiều, biên độ nhiệt lớn sẽ khiến cho bệnh này càng dễ phát sinh mạnh.

– Mật độ gieo trồng:

Mật độ gieo sạ cũng có liên quan đến khả năng tiến triển của bệnh cháy lá. Gieo sạ càng dầy, tán lá lúa càng nhiều, khả năng che khuất càng lớn, ẫm độ dưới tán lá càng cao, trong điều kiện vi khí hậu càng có lợi cho nấm cháy lá phát triển.

Phân bón:

Ba lọai phân N-P-K đều gây ảnh hưởng rất rộng lớn đến việc phát sinh bệnh nếu bón không hài hòa. Thường thì bón dư thừa phân đạm sẽ nâng cao bệnh; dư phân lân không nhìn rõ tác động lên bệnh. Tuy vậy nếu bón thêm phân lân trên khu vực đất phèn sẽ ngăn ngừa bệnh cháy lá rất rõ. Phân kali gây ảnh hưởng cực kỳ phức tạp trên sự tiến triển của bệnh cháy lá; bón dư thừa đạm và kali đều nâng cao bệnh; bón đạm vừa phải phối hợp đủ lượng kali thì sẽ giãm bệnh rất rõ ràng. Vậy nên, trong giai đọan sau trổ nếu ruộng bị bệnh cháy lá họặc thối cổ bông thì không đuợc bón thêm phân bón lá có nitrat kali.

– Giống lúa:

Thường thì các giống lúa cao sản ngắn ngày khi được phóng thích đưa vào sản xuất đại trà thì đã được những nhà khoa học lai tạo, tuyển chọn để cây lúa có thể ít nhiều mang gen có thể kháng hay chịu đựng lại bệnh cháy lá. Trồng những giống lúa bị bệnh ; khi gặp hoàn cảnh thời tiết thuận lợi cho nầm bệnh, sức ép nguồn gây bệnh trong khu vực cao thì cây lúa dễ bị “xụp mặt” cháy rụi nhanh rồi chết. Trái lại, nếu tiến hành trồng giống lúa kháng bệnh phối hợp với việc ứng dụng IPM thì cây lúa sẽ đứng vững và tiếp tục cho năng suất. Khả năng kháng lại bệnh của giống lúa chỉ có khả năng tồn tại trong một thời gian ổn định do con nấm tạo bệnh cháy lá liên tục thay đổi “tính chất tạo bệnh để thích hợp với “con bệnh”. Vậy nên, bà con nên thay đổi giống mới sau một khoảng thời gian trồng trọt. Ngòai ra, “tính chất tạo bệnh của những con nấm cũng thay đổi theo khu vực; thường hay được những nhà khoa học gọi là “nòi hay dòng nấm địa phương”. Tại Sóc Trăng có 4 nòi, Tiền Giang 3 nòi, Vĩnh Long có có 2 nòi (Teraoka và Phạm Văn Kim, 2002). Như vậy bà con nông dân đừng nên chủ quan, đừng nên tin cậy tuyệt đối là giống lúa kháng bệnh cháy lá được mua từ Sóc Trăng về; khi trồng tại khu vực Tiền Giang sẽ kháng được với bệnh này.

4/ Giải pháp phòng chữa bệnh đạo ôn trên lúa

Cần ứng dụng giải pháp ngăn ngừa, diệt trừ dịch hại tổng hợp IPM:

– Nên chọn lựa mua giống lúa xác nhận ở nhà cung ứng giống tin cậy, phải có tính “”kháng bệnh” hoặc “kháng vừa” phối hợp với khả năng kháng được rầy nâu. Những giống này phải thích hợp với chân đất tại địa phương cũng như cho năng suất cao và đạt chất lượng tốt. Dựa theo mục đích để đạt chất lượng gạo ngon, dễ tiêu sử dụng trong nước và xuất khẩu, bà con có thể chọn một số loại giống như sau: IR64, Việt nam đồng 95-20, Việt nam đồng 99-3, OMCS 2000, OM 1490, MTL 250, OM 3536, VĐ 20, Jasmine 85…

– Nên chọn hạt giống sạch bệnh, khử lẫn tạp hạt cỏ, xử lý một vài lọai bệnh trên vỏ hạt bằng phương pháp pha 20 cc thuốc CRUISER Plus với 2 lít nước xịt lên 100 kilogam hạt giống trong giai đọan ủ từ 6-12 giờ trước khi đem đi gieo sạ.

– Nên sử dụng giải pháp sạ hàng với lượng giống trung bình: 80-120 kilogam/ hecta

Bón phân hài hòa N-P-K, không bón thừa phân đạm: 80-100 kilogam N/ hecta là đủ. Nên bón phân đạm theo theo nhu cầu cây lúa, ứng dụng bảng so màu lá lúa LCC.

– Sau đợt thu hoạch nên cày vùi rơm rạ để trả lại nguồn hữu cơ cho đất đồng thời diệt trừ được mầm bệnh; hạn chế đốt rơm vì giải pháp này chỉ trả lại một vài chất khoáng có trong tro; đất từ từ kém mẫu mỡ mau suy kiệt

– Dọn dẹp vệ sinh ruộng đồng bằng phương pháp thu gom, diệt trừ lúa rày-lúa chét, cỏ dại mọc ven bờ là nơi lưu tồn và phát tán mầm bệnh sau này

– Giữ mực nước đầy đủ liên tục phía trên mặt ruộng dựa theo nhu cầu nước theo từng giai đọan của cây lúa, không nên để ruộng khô nước khi bệnh cháy lá xãy ra

– Cần thăm đồng liên tục, phát hiện kịp lúc khi bệnh bắt đầu xuất hiện. Nếu được, nên làm lô ruộng dự tính dự đoán, dành riêng khoảng vài mét vuông trên cùng ruộng lúa, sạ dày hơn bình thường, bón dư phân đạm.

– Giải pháp hóa học: điều chỉnh bét phun cho hạt thuốc thật mịn, đủ lượng nước 400-500 lít/ hecta với nồng độ theo khuyến nghị. Những lọai thuốc thông dụng ngày nay: Filia 52/5 SE, Beam 75 WP, Flash 75 WP, Fuan 40 EC, Fuji One 40 EC, Rabcide 20 SC hoặc 30 WP, Kian 50 EC, Kitazin 50 EC, Kitatigi 50 ND hoặc 10 H, Vikita 50 ND hoặc 10 H.

– Ứng dụng chất kích kháng SAR3-ĐHCT do Bộ Môn BVTV, Trường Đại học Cần Thơ nghiên cứu thử nghiệm tương đối hiệu quả với liều phun 10cc chế phẩm/ bình phun 8 lít nước vào 3-4 tuần đầu sau khi sạ.

Xem thêm Clip Video Giải pháp ngăn ngừa, diệt trừ bệnh đạo ôn hại lúa | Bạn Của Nhà Nông

Nguồn: PGS. TS Trần Văn Hai – Bộ Môn Bảo Vệ Thực Vật, Đại Học Cần Thơ

Cây trồng bị hại: Cây lúa

– Xem chủ đề liên quan: Đạo ôn, Pyricularia oryzae Cav. hay P. grisea (Cook )Sacc., cây lúa, Đạo ôn, bệnh đạo ôn hại lúa, đạo ôn hại lúa, bệnh đạo ôn, Pyricularia oryzae Cav. hay P. grisea (Cook )Sacc.

Ngoài ra, trong bài viết này, chúng tôi có đề cập đến 1 số loại dinh dưỡng và sâu bệnh, quý bà con có thể dụng các loại thuốc sau để điều trị cho cây trồng:

– Giúp trị bệnh CHÁY LÁ: azoxy gold 600sl, gamycinusa 75wp, aikosen 80wp, visen 20sc, super tank 650wp,

– Giúp kích thích nảy mầm NẢY MẦM: ademon super 22.43sl, dekamon 22.43l, root plex,

– Giúp trị bệnh ĐẠO ÔN: super tank 650wp, amistar top 325sc, fuji-one 40ec, nativo 750wg, overamis 300sc, caligold 20wp, aragibat liên việt, sumi eight 12.5wp, athuoctop 480sc, cabrio-top 600wg,

Nhấp vào nút Mua Nhanh bên dưới để đặt mua qua chúng tôi.

LIÊN HỆ MUA HÀNG : 0969.64.73.79