Nội dung chính
- 1 Đặc tính của Cây chè (trà) Xanh và sâu hại cây chè
- 1.1 Cây chè nằm trong hệ thống phân loại cây cỏ như sau:
- 1.2 Nguồn gốc cây chè trên toàn cầu
- 1.3 Nguồn gốc cây chè ở Việt Nam
- 1.4 Đặc tính thực vật học cây chè (miêu tả về cây chè)
- 1.5 Phân loại cây chè
- 1.6 Thành phần hóa học trong lá chè (trà)
- 1.7 Công dụng của lá chè xanh biểu thị qua thành phần hóa học
- 1.8 Công dụng của bã chè
Đặc tính của Cây chè (trà) Xanh và sâu hại cây chè
Sâu hại gây bệnh trên cây chè (trà)
Cẩm nang chia sẻ cây chè (Tea): Thông tin về cây chè (trà), chi tiết sâu hại gây bệnh trên cây chè và giải pháp ngăn ngừa, diệt trừ, chia sẻ cách nhân giống, trồng và chăm bón cây chè…
-
- Quy trình để bón phân cho cây chè Tây Nguyên và Bắc bộ
Cây chè nằm trong hệ thống phân loại cây cỏ như sau:
Ngành hạt kín Angiospermae
Lớp song tử diệp Dicotyledonae
Bộ chè Theales
Họ chè Theaceae
Chi chè Camellia (Thea)
Loài Camellia (Thea) sinensis.
Tên khoa học: Tên khoa học của cây chè được đông đảo nhà khoa học được biết đến là: Camellia sinensis (L) O. Kuntze và có tên cũng nghĩa là: Thea sinensis L.
Hơn một trăm năm, tên khoa học của cây chè vẫn là một vấn đề tranh luận. Có 20 cách đặt tên khoa học cho cây chè. Diễn biến đa phần như sau
Năm 1807 f. Sims. Thea sinensis Sims.
1822 H.F. Link. Camellia sinensis Link.
1854 W. Griffim. Camellia theifera Griff.
1874 D. Brandis. Camellia thea Brandis.
1874 W. T. T. Dyer. Camellia theifera Dyer.
1908 G. Watt. Camellia thea (Link) Brandis.
1919 C. P. Cohen Stuart. Camellia thiefera (Griff) Dyer.
1933 C. R. Harler. Thea sinensis (L) Sims.
1956 C. R. Harler. Camellia sinensis (L) O. Kuntze.
Nguồn gốc cây chè trên toàn cầu
Những công trình nghiên cứu và khảo sát trước đây tin rằng xuất xứ của cây chè là vùng cao nguyên Vân nam Trung quốc.
Năm 1823, những học giả người Anh tin rằng quê hương của cây chè là ở Ấn Độ chứ không phải ở Trung quốc.
Từ sự thay đổi sinh hoá của những lá cây chè mọc hoang dại và những cây chè được canh tác trọt, chăm sóc, Dejmukhatze tin rằng, xuất xứ của cây chè chính là ở Việt Nam.
Ngày nay chè được phân bổ tương đối rộng trong các điều kiện tự nhiên cực kỳ khác nhau
Nguồn gốc cây chè ở Việt Nam
Theo thư tịch cổ Việt Nam, cây chè đã có từ rất lâu rồi dưới 2 dạng: cây chè vườn hộ gia đình vùng châu thổ Sông Hồng và cây chè rừng ở miền núi phía bắc.
Năm 1882, những nhà thám hiểm Pháp đã khảo sát về sản xuất và buôn bán chè giữa sông Đà và sông Mê Kông ở miền núi phía Bắc Việt Nam
Tóm lại, đến nay những nhà khoa học thế giới đã xác nhận: Đại thể cây chè phát nguyên từ một vùng sinh thái hình cái quạt, giữa những ngọn đồi Naga, Manipuri và Lushai, dọc theo đường biên giới giữa Assam và Mianma ở phía Tây, ngang qua Trung Quốc ở phía Đông, và theo hướng Nam chạy qua những ngọn đồi của Mianma và Thái Lan vào Việt Nam, trục Tây Đông từ kinh độ 95o đến 120o Đông, trục Bắc Nam từ vĩ đ 29o đến 11o Bắc.
Ngày nay những nhà thực vật học gộp hai chi Thea và Camellia làm một và gọi là chi Camellia. Do đó tên khoa học của cây chè được đông đảo người thường gọi là Camellia sinensis (L) O. Kuntze.
Đặc tính thực vật học cây chè (miêu tả về cây chè)
-
Thân và cành chè
– Chè chỉ một thân chính và tiếp đến mới phân ra những cấp cành.
– Do hình dáng phân cành khác nhau nên người ta chia thân chè ra làm 3 loại: Thân gỗ, thân nhỡ (thân bán gỗ) và thân bụi.
Những dạng tán chè: 1/ Đứng thẳng, 2/ Trung gian, 3/ Nằm ngang
– Cành chè do mầm dinh dưỡng phát triển thành.
Trên cành chia làm nhiều đốt.
– Từ thân chính cành chè được chia nhỏ ra làm nhiều cấp: I, II,III.
– Thân và cành chè đã tạo ra khung tán của cây chè.Số lượng cành phù hợp và hài hòa nbsp; trên khung tán, chè sẽ cho sản lượng cao.
-
Mầm chè
Trên cây chè có các loại mầm: mầm dinh dưỡng và mầm sinh thực. Mầm dinh dưỡng phát triển thành cành lá, mầm sinh thực phát triển thành búp hoa và quả.
Mầm chè cắt dọc
Phía trái:
1/ Lá vẩy ốc 2/ Mầm lá cá 3/ Mầm lá thật 4/ Mầm nách 5/ Điểm sinh trưởng
|
Phía phải:
1/ Lá vẩy ốc 2/ Mầm lá cá 3/ Mầm lá thật 4/ Mầm nách thứ 4 5/ Mầm nách thứ 5 6/ Điểm sinh trưởng |
Mầm dinh dưỡng gồm có: Mầm đỉnh, mầm nách, mầm ngủ, mầm bất định (mầm ở cổ rễ)
Mầm đỉnh: Loại mầm này ở vị trí trên cùng của cành, tiếp tục phát triển trên trục chính của những cành năm trước, hoạt động phát triển mạnh và thường có công dụng ức chế sinh trưởng của những mầm ở dưới nó (lợi thế sinh trưởng ngọn). Trong 1 năm, mầm đỉnh tạo thành búp sớm nhất cùng với giai đoạn bắt đầu sinh trưởng mùa xuân của cây. Búp được tạo thành từ những mầm đỉnh là những búp đợt 1, có thể là búp bình thường hoặc búp mù.
Mầm nách: Trong hoàn cảnh sinh trưởng tự nhiên, đa phần chúng ở trạng thái nghỉ do sự ức chế của mầm đỉnh. Khi hái những búp đỉnh, mầm nách phát triển thành búp mới. Dựa theo vị trí của lá ở phía trên cành, khả năng phát triển thành búp và chất lượng búp ở những nách lá cực kỳ khác nhau. Các mầm ở nách lá bên trên thường hoạt động phát triển mạnh hơn, vậy nên cho búp có đạt chất lượng tốt hơn những mầm ở nách lá bên dưới. Các búp được tạo thành từ mầm nách của những lá năm trước gọi là búp đợt 1, có thể là búp bình thường hoặc búp mù.
Mầm ngủ: Là các mầm nằm ở những bộ phận đã hóa gỗ của những cành 1 năm hoặc già hơn. Các mầm này kém phân hóa và phát triển hơn hai loại mầm trên, bởi vậy sự tạo thành búp sau khi đốn yêu cầu một thời gian dài hơn. Kỹ thuật đốn lửng, đốn đau, có công dụng thúc đẩy sự phát triển của mầm ngủ, tạo ra các cành chè mới, có thời kỳ phát dục non, sức phát triển mạnh. Búp được tạo thành từ mầm ngủ có thể là búp bình thuờng hoặc búp mù.
Mầm bất định: Vị trí của loại mầm này không cố định trên thân chè thường ở sát cổ rễ. Nó chỉ phát triển thành cành lá mới khi cây chè được đốn trẻ lại. Trong trường hợp ấy cành chè tựa như mọc ở phía dưới đất lên. Búp được tạo thành từ những mầm bất định cũng có hai dạng: búp bình thường và búp mù.
Mầm sinh thực: Mầm sinh thực nằm ở nách lá. Bình thường mỗi nách lá có hai mầm sinh thực nhưng cũng có trường hợp số mầm sinh thực nhiều hơn và khi đó ở nách lá có một chùm hoa. Những mầm sinh thực cùng với mầm dinh dưỡng phát sinh trên cùng một trục, mầm dinh dưỡng ở giữa, mầm sinh thực ở hai bên, do đó, quá trình lớn lên dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực thường có các mâu thuẫn ổn định. Khi mầm sinh thực phát triển nhiều ở phía trên cành chè, thì quá trình lớn lên của những mầm dinh dưỡng yếu đi, do sự tiêu hao những dưỡng chất cho việc tạo thành búp hoa và quả. Trong sản xuất chè búp cần ứng dụng những giải pháp kỹ thuật thích đáng để ngăn ngừa sự phát triển của những mầm sinh thực.
-
Búp chè
– Là một đoạn non của 1 cành chè.
– Búp được tạo thành từ những mầm dinh dưỡng gồm có tôm và hai hoặc ba lá non.
– Kích cỡ của búp thay đổi phụ thuộc vào giống, loại và liều lượng phân bón, những khâu phương pháp canh tác như đốn, hái và điều kiện địa lý nơi canh tác.
– Búp chè có hai dạng: búp bình thường (búp có lá non và có tôm chè) và búp mù xòe (búp phát triển không giống thông thường có lá non nhưng không có tôm chè).
-
Lá chè
– Lá chè mọc cách trên cành, mỗi đốt có một lá.
– Lá chè có gân rất rõ ràng, các gân chính của lá chè thường không phát triển ra tận rìa lá.
– Rìa lá chè thường có răng cưa, hình dáng răng cưa trên lá chè khác nhau phụ thuộc vào giống,
– Người ta hay dựa trên số đôi gân lá để nhận biết các giống chè.
Những dạng lá chè
Một số loại lá trên cành chè
– Lá vẩy ốc: có vẩy cực kỳ nhỏ, màu nâu, cứng.
– Lá mẹ: lá này nuôi dưỡng những chồi mới mọc vậy nên được gọi là “lá mẹ”
– Lá cá: là loại lá thật thứ nhất nhưng không phát triển bình thường.
– Lá thật (lá bình thường): mọc trên cành chè theo những thế khác nhau.
Quá trình tạo thành búp xẩy ra theo đợt (đợt sinh trưởng)
Mầm ngủ -> mầm được phát động -> lá vảy ốc mở -> lá cá xuất hiện -> những lá thật xuất hiện -> cành chè ngừng hoạt động … -> mầm được phát động
Trong 1 năm cây chè có 4- 5 đợt sinh trưởng. Nếu hái búp đi thì số đợt sinh trưởng tăng thành 6- 7 đợt trong năm
– Thời gian của mỗi đợt sinh trưởng dài ngắn khác nhau tuỳ theo vụ chè
-
Rễ chè
Hệ rễ chè gồm: rễ trụ, rễ bên và rễ hấp thụ.
– Khi hạt mới nảy mầm rễ trụ phát triển cực kỳ nhanh. Khoảng 3- 5 tháng sau rễ trụ phát triển chậm lại và rễ bên phát triển.
– Sự phát triển của thân chè và rễ chè có tình trạng chen kẽ nhau. Khi thân lá phát triển mạnh thì rễ phát triển chậm lại và ngược lại.
– Rễ trụ của chè thường ăn sâu xuống đất hơn 1m. Ở các nơi đất tơi xốp thì rễ thường ăn sâu từ 2 – 3m.
– Rễ hấp thụ phân bổ tập trung ở lớp đất từ 10- 40 centimét giai đoạn cây chè lớn rễ tập trung giữa hai hàng chè.
– Sự phân bổ của rễ chè dựa vào giống, tuổi của cây, trong điều kiện đất đai và chế độ trồng trọt.
– Lượng dưỡng chất trong đất gây ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng của bộ rễ nhất là lượng đạm.
– Rễ chè kị vôi nên đòi hỏi đất có phản ứng chua.
– Canxi cần cho cây chè do đó nó có mặt ở các nơi phân bào và sinh trưởng như mút rễ, ngọn cây, là thành phần của màng tế bào…
– Chè trồng ở các nơi đất có phản ứng kiềm, dễ bị hại và không sinh trưởng được.
-
Hoa và quả chè
* Hoa chè
Hoa được tạo thành từ mầm sinh trưởng sinh thực và hoa thường tạo thành từng chùm ở nách lá. Búp hoa được tạo thành từ tháng 6 và nở rộ vào tháng 11- 12/
Hoa chè
Trên cây chè có 100- 200 hoa
Hoa chè là hoa lưỡng tính, có từ 5- 7 cánh màu trắng, có từ 200 – 400 nhị đực
Chè là loại cây giao phấn, hiện tượng tự thụ chiếm tỷ lệ thấp 2- 3%.
* Quả chè
Quả chè
-
Hạt chè
Hạt chè có vỏ dầy và cứng, có khối lượng diệp tử lớn (chiếm ¾ khối lượng tử diệp), hàm lượng dầu và chất béo trong hạt tương đối cao (>30%) dễ bị phân giải gây giảm sức nảy mầm.
Hạt chè
Hạt chè thường chín sinh lý trước chín hình thức biểu hiện ra bên ngoài do đó cần thu hoạch sớm
Phân loại cây chè
Cơ sở của việc phân loại chè thường dựa vào:
– Cơ quan dinh dưỡng: loại thân bụi hoặc thân gỗ, hình thù của tán, hình dáng và kích cỡ của một số loại lá, số đôi gân lá…
– Cơ quan sinh thực: độ lớn của cánh hoa, số lượng đài hoa, vị trí phân nhánh của đầu nhị cái.
– Đặc điểm sinh hóa: đa phần dựa trên hàm lượng tanin. Mỗi giống chè đều có hàm lượng tanin biến động trong khuôn khổ ổn định.
Dưới đây giới thiệu phân loại của Cohen Stuart (1919). Cách phân loại này được đông đảo người đồng ý. Tác giả chia Camellia sinensis L. làm 4 thứ (varietas):
-
Chè Trung Quốc lá nhỏ (Camellia sinensis var. Bohea):
Đặc tính:
– Cây bụi thấp phân cành nhiều.
– Lá nhỏ, dầy nhiều gợn sóng, màu xanh đậm, lá dài 3,5 – 6,5 centimét.
– Có 6 – 7 đôi gân lá không rõ, răng cưa nhỏ, không đồng đều.
– Búp nhỏ, hoa nhiều, năng suất thấp, chất lượng bình thường.
– Khả năng chịu rét ở độ nhiệt -12oC đến -15oC.
Phân bổ đa phần ở miền đông, đông nam Trung Quốc, Nhật Bản và một vài vùng khác.
-
Chè Trung Quốc lá lớn nbsp;(Camellia sinensis var. macrophylla):
Đặc tính:
– Thân gỗ nhỡ cao tới 5m trong hoàn cảnh sinh trưởng tự nhiên.
– Lá lớn trung bình chiều dài 12 – 15 centimét, chiều rộng 5 – 7 centimét, màu xanh nhạt, bóng, răng cưa sâu không đồng đều, đầu lá nhọn.
– Có trung bình 8 – 9 đôi, gân lá rõ.
– Cho năng suất cao. Chất lượng tốt.
Nguyên sản ở Vân Nam, Tứ Xuyên (Trung Quốc).
-
Chè Shan (Camellia sinensis var. Shan):
– Thân gỗ, cao từ 6 đến 10 m.
– Lá lớn và dài 15 – 18 centimét màu xanh nhạt, đầu lá dài, răng cưa nhỏ và dầy.
– Tôm chè có rất nhiều lông tơ, trắng và mịn trông như tuyết, nên còn được gọi là chè tuyết.
– Có khoảng 10 đôi gân lá.
– Có thể thích nghi trong hoàn cảnh ấm ẩm, ở địa hình cao, cho năng suất cao, chất lượng thuộc loại tối ưu nhất.
Nguyên sản ở Vân Nam – Trung Quốc, bắc bộ của Miến Điện và Việt Nam.
-
Chè Ấn Độ (Camellia sinensis var. atxamica):
– Thân gỗ cao tới 17 m phân cành thưa.
– Lá dài tới 20 – 30 centimét, mỏng, mềm, thông thường có màu xanh đậm, dạng lá hình bầu dục, phiến lá gợn sóng, đầu lá dài.
– Có trung bình 12 – 15 đôi gân lá.
– Cực kỳ ít hoa quả.
– Không có khả năng chịu được rét hạn.
– Năng suất, chất lượng tốt.
Trồng nhiều ở Ấn Độ, Miến Điện, Vân Nam (Trung Quốc) và một vài vùng khác.
Bốn loại (varietas) chè trình bày trên đây đều có trồng ở Việt Nam, nhưng phổ biến nhất là hai thứ C. sinensis var. macrophylla và C. sinensis var. Shan.
– Camellia sinensis var. macrophylla được canh tác nhiều nhất ở những tỉnh trung du với những tên gọi của địa phương (dựa theo màu sắc của lá) như: Trung du lá xanh, Trung du lá vàng, v.v… Tỷ lệ trồng những giống chè trung du ở bắc bộ đạt tới 70%. Năng suất búp trong sản xuất đại trà khi chè 5 – 19 tuổi thường đạt 4 – 5 tấn/ hecta.
Những giống chè Trung du chịu được đất xấu, nhưng nhiều sâu bệnh: rầy xanh, bọ cánh tơ…, ở vùng cao thường bị nhiễm bệnh phồng lá. Chè Trung du thường để chế biến chè xanh, chè đen đều cho chất lượng tốt.
– Camellisa sinensis var. Shan được canh tác ở miền núi những tỉnh bắc bộ và ở nam bộ Tây Nguyên (Lâm Đồng). Ở mỗi địa phương có những giống khác nhau như: Shan Mộc Châu, Shan Tham Vè, Shan Trấn Ninh… Năng suất búp thường đạt 6 – 7 tấn/ hecta. Búp chè có rất nhiều tuyết, sử dụng chế biến chè xanh, chè đen đều cho chất lượng tốt nhưng phù hợp với chế biền chè xanh hơn.
Thành phần hóa học trong lá chè (trà)
– Nhóm chất đường: glucoza, fructoza,.. tạo giá trị dinh dưỡng và hương thơm khi chế biến ở nhiệt độ cao.
– Nhóm tinh dầu: metyl salixylat, citronellol,..tạo ra mùi thơm riêng của từng loại chè, chịu tác động của khí hậu, loại đất và quy trình chế biến.
– Nhóm sắc tố: chất diệp lục, caroten, xanthophin, khiến cho nước chè có thể kéo dài từ màu xanh nhạt đến xanh lục sẫm hoặc từ màu vàng đến đỏ nâu và nâu sẫm.
– Nhóm axít hữu cơ: gồm 8-9 loại khác nhau, có công dụng tăng giá trị về mặt thực phẩm và có chất sinh ra vị.
– Nhóm chất vô cơ: kali, phốtpho, lưu huỳnh, flo,magiê, canxi,..
– Nhóm vitamin: C, B1, B2, PP,…: đa số tan trong nước, vậy nên người ta nói nước chè có giá trị như thuốc bổ.
– Nhóm glucozit: góp thêm phần sinh ra hương chè và có khả năng làm cho nước chè có vị đắng, chát và màu hồng đỏ.
– Nhóm chất chát (tanin): chiếm 15%-30% trong chè, sau khi chế biến thì nó trở nên vị chát…
– Nhóm chất nhựa: đóng một vai trò tạo hương thơm và giữ cho mùi không thoát đi nhanh (chất này cực kì quan trọng trong việc chế biến trà rời thành trà bánh).
– Nhóm chất keo (petin): giúp bảo quản trà được lâu vì có tính năng khó hút ẩm.
– Nhóm ancal: cafein, theobromin, theophylin, adenin, guanin,..
– Nhóm protein và axit amin: tạo giá trị dinh dưỡng và mùi thơm cho chè.
– Nhóm enzim: là các chất xúc tác sinh học quan trọng trong suốt quá trình thay đổi của cơ thể sống.
Công dụng của lá chè xanh biểu thị qua thành phần hóa học
– Diệt trừ khuẩn.
– Chống chất phóng xạ.
– Giúp cơ thể tỉnh táo, kích thích lao động, mang lại niềm vui.
– Thúc đẩy tiêu hóa và bài tiết.
– Hỗ trợ cho hô hấp và tim mạch.
– Phòng bệnh đau răng.
– Hạ cholesterol và chất béo trong máu.
– Bảo vệ thần kinh trong bệnh Pakinson…
Công dụng của bã chè
– Phơi khô bỏ túi giấy treo trong nhà vệ sinh khử mùi hôi. Để trong tủ lạnh khử mùi khó chịu của đa số loại thực phẩm.
– Cho vào xoong, chảo rang trong ≈ 15’ khử mùi tanh của cá
– Lấy bã trà xát lên gương, kính bị ố, rồi lau bằng khăn lạnh thì gương, kính sẽ sáng bóng
– Lấy bã trà khô đốt lên sẽ đuổi được gián, kiến
– Đổ bã trà vào chậu cây cảnh sẽ giữ được ẩm độ
Đồi chè Tâm Châu, Bảo Lộc, Lâm Đồng
– Tham khảo thêm chủ đề: cây chè, trà
Ngoài ra, trong bài viết này, chúng tôi có đề cập đến 1 số loại dinh dưỡng và sâu bệnh, quý bà con có thể dụng các loại thuốc sau để điều trị cho cây trồng:
– Giúp diệt trừ BỌ CÁNH TƠ: vifast 10ec, agassi 55ec, confidor 200sl, sạch nhện cali, siêu sùng 135ec, sạch nhện ung trứng,
– Giúp trị bệnh CỔ RỄ: monceren 250sc,
– Giúp kích thích nảy mầm NẢY MẦM: ademon super 22.43sl, dekamon 22.43l, root plex,
– Giúp trị bệnh PHỒNG LÁ: sat 4sl,
Nhấp vào nút Mua Nhanh bên dưới để đặt mua qua chúng tôi.
LIÊN HỆ MUA HÀNG : 0969.64.73.79