Nội dung chính
- 1 Ứng dụng công nghệ cao trong gia tăng giá trị nâng cao trong chuỗi giá trị nông sản ở Việt Nam
- 1.1 1/ Đặt vấn đề:
- 1.2 2/ Chuỗi giá trị nông sản ở Việt Nam ngày nay.
- 1.3 3/ Chức năng của thị trường và chuỗi giá trị trong nước
- 1.4 4/ Ứng dụng công nghệ cao trong gia tăng chuỗi giá trị nông sản
- 1.5 5/ Một vài biện pháp gia tăng giá trị nâng cao trong chuỗi giá trị của nông sản
- 1.6 6/ Kết luận
- 1.7 Tài liệu tham khảo
- 1.8 Tóm tắt
- 1.9 Abstract:
Ứng dụng công nghệ cao trong gia tăng giá trị nâng cao trong chuỗi giá trị nông sản ở Việt Nam
1/ Đặt vấn đề:
Trong hơn 20 năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được các thành tựu nổi trội, bảo đảm an ninh lương thực, đưa chúng ta thành cường quốc xuất khẩu nông sản, trong đó nhiều mặt hàng đứng vị trí hàng đầu thế giới như gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, hạt điều, chè, thủy sản…và nổi bật là, nông nghiệp là ngành độc nhất xuất siêu, góp thêm phần ổn định cán cân thương mại và hỗ trợ chúng ta vượt qua những cuộc khủng khoảng kinh tế gần đây.
Tuy vậy, chúng ta cũng luôn đứng trước những thử thách: “được mùa mất giá, mất mùa được giá”; “trồng-chặt”…. Nhiều nông sản tăng sản lượng mỗi năm, song gần như không tăng lợi nhuận, đến mức Thủ tướng Chính phủ phải can thiệp để có thể bảo đảm nông dân có lãi, tối thiểu từ 3 % trong sản xuất lúa gạo. Nguyên do của tồn tại này có rất nhiều, song nguyên do của mọi nguyên do chính là chúng ta đã không tạo dựng được thị trường của riêng mình. Những công đoạn tạo ra giá trị nâng cao cao nhất trong chuỗi giá trị nông sản hầu hết đều nằm ở ngoài lãnh thổ Việt Nam như chế biến, phân phối, trong khi những công đoạn trong nước đều sinh ra giá trị nâng cao thấp, nhất là khâu sản xuất. Gia tăng giá trị nâng cao thông qua việc tạo thêm giá trị ở mỗi khâu và phân chia cân đối trong chuỗi sẽ góp thêm phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản, nâng cấp thu nhập của nông dân và bảo đảm sự phát triển vững chắc của sản xuất nông nghiệp.
2/ Chuỗi giá trị nông sản ở Việt Nam ngày nay.
Có rất nhiều khái niệm về chuỗi trị trên toàn cầu. Trong bài viết này chúng tôi dùng khái niệm của Kaplinsky và Morrissau (2001): “Chuỗi giá trị kể đến một loạt các hành động cấp thiết để biến một sản phẩm (hoặc một dịch vụ) từ khi còn là ý đồ, thông qua những thời kỳ sản xuất khác nhau đến khi phân phối tới người tiêu sử dụng cuối cùng và vứt bỏ sau khi dùng.
Theo Gereffi (2005), định nghĩa “Chuỗi giá trị” trong nông nghiệp là 1 cách tiếp cận giúp nông dân tiếp cận thị trường có đạt hiệu quả cao ngày nay trên toàn cầu, nó có thể hiểu là:
– Một chuỗi những hoạt động chức năng, từ cung ứng những dịch vụ đầu vào cho một sản phẩm cụ thể cho tới sản xuất, thu hái, chế biến, phân phối, marketing và tiêu thụ cuối cùng; qua mỗi hoạt động lại bổ sung ‘giá trị’ cho thành phẩm cuối cùng.
– Sự sắp xếp có tổ chức, kết nối và điều phối người sản xuất, nhà chế biến, những thương gia, và nhà phân phối liên quan đến một sản phẩm cụ thể
– Một mô hình kinh tế hiện đại nbsp;trong đó phối hợp chặt chẽ giữa việc lựa chọn sản phẩm và công nghệ tân tiến phù hợp (hạ tầng, viễn thông…) cùng với phương thức tổ chức những nguyên nhân liên quan (sản xuất, nhân lực…) để tiếp cận thị trường.
Giá trị sẽ tạo thành theo sản phẩm trong toàn bộ quá trình từ sản xuất đến thương mại, không bị hạn chế bởi ranh giới quốc gia. Trong trường hợp sản phẩm được sinh ra bởi sự kết hợp của đa số công ty, hãng sản xuất thì chuỗi giá trị sẽ được gói lại trong một định nghĩa rộng hơn “giá trị hệ thống”. Chuỗi giá trị tồn tại và phát triển vững chắc khi mà toàn bộ những nguyên nhân tham dự vào từng hoạt động của chuỗi đều được hưởng lợi theo quy tắc hợp tác chia sẻ ích lợi. Việc nâng cấp chuỗi giá trị cần ứng dụng đồng bộ cả công nghệ và thể chế quản lý mới thành công.
Về tổng thể ta có thể chia chuỗi giá trị của nông sản thành 3 công đoạn: i) Sản xuất, ii) Thu mua, sơ chế/chế biến và bảo quản và iii) Thương mại/tiêu thụ. Ngày nay chúng ta đã có một vài nghiên cứu chi tiết về kinh phí cũng như giá trị tạo thành trong mỗi công đoạn của những chuỗi giá trị nông sản, tuy vậy lời khuyên biện pháp khả thi để gia tăng giá trị nâng cao chưa nhiều. Có thể hình dung được, lợi nhuận thu được ở công đoạn sản xuất là thấp nhất và ở khâu tiêu thụ là cao nhất. Đây là nguyên do mà cực kỳ ít nhà đầu tư bỏ vốn vào sản xuất mà chỉ tập trung cho thu mua và thương mại.
Theo Ngân Hàng thế giới (2011) thì người sản xuất lúa tại ĐBSCL thu được 34% tổng số GTGT có được trong chuỗi giá trị gạo xuất khẩu. Hiện tại trong chuỗi giá trị xuất khẩu gạo của Việt nam có quá nhiều nguyên nhân sản xuất và buôn bán tham dự, tuy vậy nhân tố hợp tác giữa cac hộ nông dân và với doanh nghiệp thì hầu hết thiếu hụt. Theo số liệu điều tra của Cục Canh tác năm 2010 (dẫn theo Đặng Kim Sơn, 2012) thì với lúa Hè thu, không một trong các loại giống nào cho lợi nhuận vượt quá 25%, thậm chí với những giống chất lượng càng cao thì lợi nhuận còn thấp dưới 20%. Đây cũng lý giải vì sao nông dân vẫn kiên trì gieo trồng những giống lúa chất lượng thấp trong khi chuỗi giá trị lại không khuyến khích mua bán theo chất lượng.
Bảng 1/ Phân chia giá trị nâng cao trong chuỗi giá trị lúa gạo xuất khẩu ĐBSCL
Nguyên nhân |
GTGT, đồng/ kilogam |
Tỷ lệ GTGT (%) |
Khối lượng trung bình (tấn/năm) |
GTGT tổng số, (qui USD) |
Nông dân |
507 |
34% |
8/4 |
224 |
Thu gom |
280 |
19% |
1700 |
25/053 |
Xay xát |
186 |
13% |
4949 |
48/448 |
Đánh bóng |
50 |
3% |
74400 |
195/789 |
Vận chuyển |
29 |
2% |
8550 |
13/050 |
Xuất khẩu |
422 |
29% |
100000 |
2/221/053 |
Nguồn: MDI, 2009, dẫn theo Steven Jaffee, WB, 2011/
Bảng 2/ Giá trị nâng cao của một vài nguyên nhân trong chuỗi giá trị cà phê xuất khẩu Krong no, Dak nông
Nguyên nhân |
Qui mô |
GTGT, 1000đ |
Tổng GTGT/năm, triệu đ |
Hộ thâm canh |
1 ha |
50.380/ hecta |
50,38 |
Hộ thu gom |
200 tấn/năm |
200/tấn |
40,00 |
Đại lý cấp xã |
300 tấn/năm |
220/tấn |
66,00 |
Đại lý cấp huyện |
1/000 tấn/năm |
270/tấn |
270,00 |
Nguồn: Bùi Quang Duẩn, Trung tâm HTNN, 2012/
Bảng 3/ Phân chia giá trị nâng cao trong chuỗi giá trị mận Mộc châu trong nước năm.
Nguyên nhân |
GTGT (đồng/ kilogam ) |
Tỷ lệ GTGT (%) |
Khối lượng trong vụ bình quân (tấn) |
Tổng GTGT của nguyên nhân (tr. đ) |
Nông dân |
4200 |
28/4% |
9 |
37/8 |
Thu gom |
340 |
2/3% |
80 |
27/2 |
Bán buôn Mộc châu |
1600 |
10/8% |
200 |
320.0 |
Bán buôn Hà nội |
900 |
6/1% |
60 |
54/0 |
Bán lẻ Hà nội |
7750 |
52/4% |
1/2 |
9/3 |
Nguồn: Lê Quốc Anh, Đào Thế Anh, Trung tâm HTNN, 2012/
Bảng 4/ Phân chia giá trị nâng cao trong chuỗi giá trị ngô Mộc châu trong nước năm.
Nguyên nhân |
GTGT (đ/ kilogam ) |
Tỷ lệ GTGT (%) |
Tổng khối lượng/năm (tấn) |
Tổng GTGT/năm (tr.đ) |
Nông dân |
1/584 |
82/1% |
9/639 |
15/3 |
Thu gom nhỏ |
200 |
10/4% |
250 |
50.0 |
Lò sấy nhỏ |
100 |
5/2% |
1/200 |
120.0 |
Thu gom lớn |
20 |
1/0% |
20.000 |
400.0 |
Công ty chế biến TAGS từ ngô |
25 |
1/3% |
30.000 |
750.0 |
Nguồn: Hoàng Thanh Tùng, Đào Thế Anh, Trung tâm HTNN, 2010/
Những ví dụ nêu trong những bảng 1 đến 4 cho biết những vấn đề sau:
– Các nghiên cứu về chuỗi giá trị ở Việt Nam đa phần còn chưa hoàn chỉnh cho toàn chuỗi và chưa lời khuyên được những biện pháp khả thi tổng thể về thể chế và công nghệ.
– Người nông dân được hưởng lợi ít nhất trong chuỗi giá trị do quy mô nhỏ. Trong sản xuất lúa gạo, việc sản xuất nhỏ, nhiều giống, thương lái thu không có điều kiện phân loại giống khiến cho chất lượng gạo không đều, không thể xây dựng thương hiệu, ngoài tên chung “Gạo trắng Việt Nam’. Trong sản xuất cà phê, nông dân thậm chí còn chịu thiệt thòi hơn. Những nhà khoa học ước tính, nông dân chỉ được hưởng lợi khoảng 10% trong tổng giá trị nâng cao của sản phẩm cà phê cuối cùng. Trong nhiều trường hợp, việc có quá nhiều trung gian những cấp gây giảm thu nhập của nông dân 1 cách đáng kể. Tiềm năng sinh ra giá trị của khâu bán lẻ trên thị trường nội tương đối cao, tuy vậy quy mô bán lẻ lại nhỏ và phân tán.
Công nghiệp chế biến và bảo quản chưa được đầu tư cũng là nguyên do gây giảm giá trị của nông sản, cho dù Nhà nước đã có rất nhiều chính sách hỗ trợ thông qua những văn bản sau: i) Nghị quyết 48/NQ-CP ngày 23/9/ 2009 của Chính phủ về Cơ chế, chính sách hạ thiệt hại sau khi thu hoạch đối với nông sản, thủy sản; ii) Những Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: số 69/2007/QĐ-TTg, ngày 18/5/2007 Phê duyệt Đề án phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trong công nghiệp hoá, tân tiến hoá nông nghiệp, nông thôn đến 2010 và định hướng đến năm 2020; Số 63/2010/QĐ-TTg ngày 15/10/2010 về chính sách hỗ trợ nhằm hạ thiệt hại sau khi thu hoạch đối với nông sản, thủy sản; Số 23/2010/QĐ-TTg ngày 06/01/2010 phê duyệt Đề án phát triển thương mại nông thôn thời kỳ 2012-2015 và định hướng đến 2020; Số 57/2010/QĐ-TTg, ngày 17/9/2010 về miễn tiền thuê đất đối với những dự án xây dựng kho dự trữ 4 triệu tấn lúa, ngô, kho lạnh bảo quản thủy sản, rau quả và kho tạm trữ cà phê theo quy hoạch.
3/ Chức năng của thị trường và chuỗi giá trị trong nước
Trong khoảng thời gian qua, chúng ta lưu ý nhiều đến thị trường xuất khẩu mà ít lưu ý đến tiềm năng của thị trường trong nước, trong khi tổng giá trị của thị trường thực phẩm trong nước luôn cao hơn xuất khẩu. Mức thu nhập dân cư tăng kéo theo nhu cầu về chất lượng tăng tại những đô thị được tăng lên. Thị trường đô thị chiếm khoảng trên 40% giá trị của thị trường thực phẩm Việt nam (Moustier et all, 2009). Khảo sát một vài thị trường đô thị cấp hai như Long xuyên, Quy nhơn, Đồng hới, Hà tĩnh cho biết khoảng 20% gạo chất lượng cao thường hay được nhập từ ĐBSCL hay từ Thái lan, Cămpuchia chứ không được sản xuất tại chỗ. Như vậy thị trường gạo chất lượng trong nước còn bị bỏ ngỏ. Vụ Đông xuân 2012, lợi nhuận của nông dân trên 1 ha lúa xuất khẩu tại An giang là 16,5 triệu đồng (đạt tỷ lệ lợi nhuận/doanh thu là 46%), trong cùng thời vụ lợi nhuận của 1 ha lúa tẻ chất lượng bán trong nước tại Hải dương là 14,2 triệu đồng. Một vài mô hình lúa nếp đặc sản của bắc bộ, nông dân có thể có mức lợi nhuận trên 17 triệu đồng/ hecta. Giá gạo xuất khẩu năm 2012 chỉ bằng 64% giá gạo tẻ chất lượng cao và bằng 90% giá gạo tẻ thường trên thị trường trong nước (Trung tâm HTNN, 2012).
4/ Ứng dụng công nghệ cao trong gia tăng chuỗi giá trị nông sản
Công nghệ cao là công cụ quan trọng nhất để gia tăng giá trị nâng cao của nông sản khi mà những động lực khác cho phát triển như đất đai, lao động, và một phần chính sách đã phát huy hết hiệu lực. Với nhận thức này, chỉ trong khoảng thời gian ngắn, đồng loạt những văn bản liên quan đến Công nghệ cao trong nông nghiệp được ban hành, đó là: i) Luật Công nghệ cao, được Quốc Hội thông qua ngày 13/11/2008; ii) Những Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: 176/QĐ-TTg, ngày 29/01/2010 phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020; Số 49/2010/QĐ-TTg, ngày 19/7/2010 phê duyệt Danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển và Danh mục sản phẩm công nghệ cao được khuyến khích phát triển; Số 842/QĐ-TTg, ngày 01/6/2011 phê duyệt Kế hoạch phát triển một vài ngành công nghiệp công nghệ cao đến năm 2020; Số 11/2006/QĐ-TTg ngày 12/01/2006 phê duyệt “Chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học thuộc lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020”; Số14/2008/QĐ-TTg, ngày 22/01/2008 phê duyệt “Kế hoạch tổng thể phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học ở Việt Nam đến năm 2020” và số 2441/QĐ-TTg ngày 31/12/2010 phê duyệt “Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020”.
Với tầm nhìn mới trong Nông nghiệp: i) Tăng trưởng ổn định, ii) Hạ phát thải khí nhà kính và iii) Tăng thu nhập cho người dân thì những biện pháp tổng hợp, trong đó ứng dụng công nghệ cao mang tính quyết định. Những công nghệ và biện pháp cần phải được ưu tiên là:
4/1/ Trong công đoạn sản xuất
i) Chọn tạo giống
Chọn tạo giống cây trồng thích nghi với điều kiện bất thuận của thay đổi khí hậu, chịu đựng sâu hại, chất lượng phục vụ đòi hỏi đa dạng của thị trường. Những công nghệ cần ưu tiên là: Công nghệ gen và công nghệ tế bào, trong đó gồm cả công nghệ chuyển gen với những loài cây trồng đã được Chính phủ cho phép (ngô, đậu nành và bông). Công nghệ gen còn được sử dụng trong giải mã gen, xây dựng bản đồ gen, nhất là với những giống bản địa, đặc sản để có thể cung cấp nguyên vật liệu di truyền thích hợp mục tiêu tạo giống, giúp cắt ngắn thời gian chọn tạo giống mới.
Để phục vụ đòi hỏi người tiêu sử dụng trong nước và quốc tế, những chỉ tiêu cơ bản về chất lượng, bao gồm cả chất lượng cảm quan, sinh hóa và vệ sinh an toàn thực phẩm cần phải được quan tâm trong suốt quá trình định hướng chọn, tạo giống.
ii) Phân bón và bón phân
Ngày nay, trong cơ cấu giá cả của đa số nông sản, kinh phí vật tư và lao động chiếm tỉ lệ đa phần. Vì vậy, để hạ giá cả sản phẩm, tăng năng lực cạnh tranh cần tập trung vào những công đoạn sản xuất chiếm kinh phí cao này.
Trước tiên, cần tăng hiệu quả dùng phân bón. Theo nghiên cứu, chỉ 40-50% phân đạm, 30-60% phân lân (kể cả hiệu lực tồn đọng ) và khoảng 55-60% kali được cây trồng dùng, phần còn lại bị rửa trôi hoặc bay vào không khí (với N). Vì vậy, những công nghệ gia tăng hiệu suất dùng phân bón đóng vai trò hết sức quan trọng. Hiện tại, những chế phẩm làm chậm quá trình chuyển hóa Nitơ bao gồm Agrotain, NEB, urea bọc lưu huỳnh, formaldehyt, hay hạ cố định lân như Avail, EVL đang được sử dụng. Phân bón NPK có chứa những nguyên tố trung vi lượng chelate… những chế phẩm vi sinh vật hay phân vi sinh vật chức năng, phân bón có chứa những thành phần đa trung vi lượng và vi sinh cũng là các công nghệ mới và hiệu quả.
Mỗi năm chúng ta sản xuất trên 40 triệu tấn lúa, 5 triệu tấn ngô… đồng thời chúng ta cũng có tối thiểu một lượng phế phụ phẩm như vậy không được dùng hiệu quả, mà đa phần bị đốt tại ruộng, vừa mất dưỡng chất, vừa tăng phát thải khí nhà kính. Vì vậy, cần sản xuất than sinh học cho từ rơm rạ để làm nhiên liệu hay chế phẩm cải tạo đất, ứng dụng công nghệ chuyển hóa lignin-cellusoe để sản xuất ethanol thay vì dùng tinh bột như ngày nay. Công nghệ compost/ủ với vi sinh vật để chế biến phân bón hữu cơ cũng là biện pháp xử lý phế phụ phẩm hữu hiệu.
Cùng với kỹ thuật sản xuất phân bón công nghệ cao, việc ứng dụng GIS, viễn thám, thông tin di động để bón phân theo nhu cầu cây trồng cũng bắt đầu được sử dụng.
iii) Quản lý cây trồng tổng hợp
Ngoài bón phân, kỹ thuật Nông lộ phơi (AWD) để giúp tiết kiệm nước trên ruộng lúa, tưới phun và tưới từng giọt phối hợp dùng chất dưỡng ẩm, màng phủ để tăng hiệu quả dùng nước với cây trồng cạn; dùng GIS để dự đoán sâu hại, kỹ thuật giải mã trình tự gen để chẩn đoán và tìm thấy bệnh mới hay những chế phẩm BVTV sinh học là các công nghệ đang phát huy hiệu quả trong sản xuất.
iv) Chuyển đổi hệ thống trồng trọt, cơ cấu cây trồng
Việc tăng vụ, dịch chuyển thời vụ hay thay đổi cơ cấu cây trồng theo chiều sâu (cùng cơ cấu về loài cây trồng nhưng dùng giống mới) cho phép nâng cấp và ổn định độ phì nhiêu đất, hạ sức ép về sâu hại và lao động. Những cách làm mạ nền, khay, mạ ném, sạ hàng hay xen cây bộ đậu, trồng cây vụ đông, hoặc sạ hàng loạt để né rầy đã chứng tỏ cho những gói công nghệ này. Một vài thành công trong sản xuất khoai tây, đậu nành bằng trồng trọt ít nhất hay sản xuất nấm rơm trên ruộng lúa hoàn toàn có thể mở rộng nếu có chính sách thích hợp.
v) Cơ giới hóa trồng trọt
Việc sản xuất hàng hóa qui mô lớn yêu cầu phải tích tụ ruộng đất theo chủ trương “hộ nhỏ-cánh đồng lớn” để gia nâng cao khả năng cơ giới hóa. Hiện tại công nghệ san ruộng bằng lazer, làm đất, lên luống, gieo sạ, thu hoạch, vận chuyển, sấy với rất nhiều cây trồng đều có thể dùng máy.
4/2/ Trong công đoạn bảo quản, chế biến
Có thể nói, với đa phần sản phẩm nông nghiệp chưa được bảo quản chế biến 1 cách khoa học nên thiệt hại cực kỳ cao cả về số lượng (11-13% với lúa, 13-15% với ngô, 25-30% với rau) và về chất lượng (nhiễm aflatoxin, mốc, mọt…).
Trong sản xuất lúa gạo cần tiếp tục ưu tiên khâu sấy để có thể bảo đảm 100% lúa được sấy. Trong cà phê, khâu chế biến, bảo quản đều cực kỳ kém, tỉ lệ lỗi cao, tiêu chuẩn thấp. Tỉ lệ cà phê chế biến sâu quá thấp, chưa đạt 10%, trong khi giá trị nâng cao đa phần nằm ở công đoạn này. Với những cây trồng khác cũng có hiện tượng tương đương.
4/3/ Trong công đoạn Thương mại sản phẩm
Việt Nam là nước xuất khẩu nhiều loại nông sản có độ mở thị trường cực kỳ cao: Cà phê, hồ tiêu trên 90%, Lúa gạo xấp xỉ 25%, những mặt hàng khác như cao su, hạt điều, chè, sắn…cũng trên 50-60%…. Như vậy, về lý thuyết, Việt Nam phải là nước điều tiết hoặc tham dự điều tiết giá thị trường. Tuy vậy, đa số nông sản xuất khẩu của Việt Nam lại không có thương hiệu, các sản phẩm có thương hiệu thì qui mô quá nhỏ. Vì vậy, giá trị nâng cao nhờ thương hiệu chúng ta không có.
Ngoài ra, do sản xuất nhỏ lẻ, thương lái thu gom nông sản thay vì mua theo mỗi loại chất lượng thì đều trộn chung. Việc này dẫn tới cà phê Việt Nam cực kỳ có thể được chế biến và tiêu thụ dưới những tên thương mại nổi tiếng của Nestle, Highland, Starbucks… Còn thương hiệu Trung Nguyên hay Biên Hòa chưa đáng kể. Với gạo cũng vậy, mặc dù công đoạn chế biến của Việt nam cực kỳ tốt, song do nhiều nguyên do, gạo Việt Nam chỉ một tên gọi chung là gạo trắng Việt Nam, trong khi cạnh chúng ta có Jasmine, Khaodakmali của Thái lan hay Basmati của Ấn độ, Pakistan..
5/ Một vài biện pháp gia tăng giá trị nâng cao trong chuỗi giá trị của nông sản
5/1/ Biện pháp về thị trường:
Trước tiên, cần thay đổi tư duy từ sản xuất theo khả năng (supply-driven) sang sản xuất theo nhu cầu thị trường (demand-driven). Vì vậy, Chính phủ hỗ trợ xác định thị trường chiến lược cho cho từng ngành hàng và ký những cam đoan quốc gia để có thể bảo đảm rủi ro thấp nhất. Hệ thống thông tin và dự đoán, phân tích thị trường, tiêu chuẩn chất lượng cần phải được update, xây dựng cơ sở dữ liệu cho từng chủng loại sản phẩm và từng thị trường cụ thể. Trước tiên cần phát triển những chuỗi giá trị căn cứ vào thị trường trong nước để gia nâng cao tính chuyên nghiệp cho những nguyên nhân, tiếp đến tạo mối liên lạc chặt chẽ giữa Thương vụ và Doanh nghiệp trong nước.
Nhằm né rủi ro do giá xuống thấp khi vào vụ thu hoạch, Nhà nước nên tổ chức thu gom nông sản và khi giá lên tới mức có lợi rất nhiều cho người dân thì tổ chức đấu giá, thậm chí cả đấu giá xuất khẩu. Thái Lan hiện đang thực thi thu mua lúa cho nông dân và tổ chức đấu thầu bán lại cho Doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu.
5/2/ Biện pháp về xây dựng và phát triển thương hiệu quốc gia:
Mỗi nước khi tham dự thị trường (bao gồm cả thị trường trong nước) đều phải xây dựng được thương hiệu của từng sản phẩm để bảo hộ và gia tăng giá trị nâng cao. Chúng ta đã và đang xây dựng Chỉ dẫn địa lý cho một vài sản phẩm đặc sản, bản địa, tuy vậy qui mô sản xuất những sản phẩm này lại quá nhỏ nhỏ, cần có chính sách ưu tiên thúc đẩy sản xuất đối với những sản phẩm nàyVì vậy, Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ Doanh nghiệp, Hiệp hội xây dựng thương hiệu thông qua: a) Qui hoạch và xây dựng vùng sản xuất; b) Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn sản phẩm hoặc cân đối tiêu chuẩn quốc tế; c) Quảng cáo thương hiệu trên những phương tiện truyền thông; d) Huy động nhiều nhất sự tham dự của những hãng vận tài (bao gồm cả hàng không) để dùng và giới thiệu sản phẩm và e) hỗ trợ tham dự đẩy nhanh thương mại, hội chợ triển lãm trong nước và nước ngoài.
5/3/ Biện pháp về hỗ trợ Doanh nghiệp và đầu tư công nghệ
Doanh nghiệp ngày nay cực kỳ đắn đo khi tham dự đầu tư vào nông nghiệp, nhất là công đoạn sản xuất mà họ đa phần tham dự vào khâu thu gom, sơ chế,tiêu thụ và cung cấp đầu vào. Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi hơn về hạn điền và thời gian thuê đất, hỗ trợ tích tụ đất đai, thuế, vốn vay, bảo hiểm rủi ro, đào tạo nguồn lực… để họ quan tâm hơn đến đầu tư vào nông nghiệp. Cần tạo điều kiện để nông dân góp quyền dùng đất vào doanh nghiệp như mua cổ phiếu để họ yên tâm giao đất. Khi Doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất, họ sẽ là pháp nhân quan trọng trong việc định hướng thị trường, chọn lựa công nghệ và tìm nguồn vốn đầu tư. Với đầu tư thiết bị, máy móc cần có chính sách ưu đãi về lãi suất, không tính theo năm mà chỉ tính theo mùa vụ sản xuất.
Trong chuỗi giá trị, doanh nghiệp không hoạt động độc lập mà phải hợp tác với những nguyên nhân khác, do đó đầu tư công nghệ cần tổng thể theo chuỗi để chuỗi giá trị có thể vận hành đồng bộ từ sản xuất đến chế biến, đóng gói, thương mại. Hợp tác giữa doanh nghiệp với nghiên cứu tư vấn là hết sức cấp thiết để thúc đẩy lĩnh vực này.
5/4/ Biện pháp về hỗ trợ xây dựng Tổ chức nông dân và Hiệp hội ngành hàng
Nông dân, thậm chí doanh nghiệp hoạt động thuộc lĩnh vực nông nghiệp đều có qui mô nhỏ, vốn ít, vì vậy khả năng vươn ra thị trường trực tiếp là khó khăn. Hơn thế nữa chính chúng ta đang tự cạnh tranh nhau nên đã làm tổn hại uy tín quốc gia và gây thiệt hại cho người sản xuất. Vì vậy, Nhà nước cần hỗ trợ để tạo thành những hình thức hợp tác của nông dân như nhóm thị hiếu, Hiệp hội, HTX theo từng ngành hàng cụ thể. Như vậy, hoạt động sản xuất nông nghiệp, nhất là hoạt động thuộc lĩnh vực chế biến, xuất khẩu phải là những hoạt động có điều kiện và cần có chế tài để giám sát Doanh nghiệp. Những tổ chức nông dân và hiệp hội sẽ cùng với doanh nghiệp đưa ra biện pháp về tổ chức chuỗi giá trị, biện pháp về quản lí chất lượng theo chuỗi, biện pháp quản trị thương hiệu theo chuỗi, xây dựng kênh phân phối và marketing sản phẩm; quản lí và chia sẻ rủi ro theo chuỗi. Tóm lại nhóm biện pháp này bao gồm những biện pháp về thể chế tổ chức chuỗi, là nền tảng cho việc ứng dụng có hiệu quả công nghệ mới và tân tiến trong chuỗi giá trị nông sản.
6/ Kết luận
Nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn lớn về tác động tiêu cực của Thay đổi khí hậu, giá cả sản xuất cao, chất lượng nông sản thấp khiến cho năng lực cạnh tranh hạ. Thêm vào đó, công nghiệp chế biến lạc hậu, thương hiệu sản phẩm không có nên việc nâng cao giá trị nông sản trong chuỗi giá trị cực kỳ hạn chế. Việc gắn sự phát triển nông nghiệp xanh với chiến lược phát triển chuỗi là công việc cần làm ngay.
Tăng trưởng của nông nghiệp thời gian qua đa phần dựa vào đổi mới chính sách, đẩy mạnh đầu tư, nhất là trong thủy lợi và phát triển Khoa học công nghệ đặc biệt về giống. Trong khoảng thời gian tới, tăng trưởng trong nông nghiệp sẽ phải đa phần dựa trên phát triển Doanh nghiệp và Khoa học công nghệ, trong đó phát triển doanh nghiệp giữ vai trò chính trong nâng cao chuỗi giá trị.
Tài liệu tham khảo
1/ Lê Quốc Anh, Đặng Thị Hải, Đào Thế Anh. 2012/ Nghiên cứu chuỗi giá trị mận Mộc châu, Sơn la. Báo cáo của dự án Aciar Tây Bắc.
2/ Bùi Quang Duẩn. 2012/ Các thách thức và biện pháp phát triển chuỗi giá trị cà phê tỉnh Đắc Nông. Tài liệu bản quyền dự án 3EM Đắk Nông.
3/ Gereffi, G., Humphrey, J., Sturgeon, T. 2005/ The governance of global value chains. In Nhận xét of International Political economy, vol. 12, pp. 78-104/
4/ Jaffee S. và cộng sự. 2011/ World Bank. Vietnam rice, Farmer and Rural development. From successful growth lớn sustainable prosperity. 100 p.
5/ Kaplinsky, R. and M. Morris (2001). A Handbook for Value Chain Research. Brighton, United Kingdom, Institute of Development Studies, University of Sussex.
6/ Moustier, P.; Phan Thi Giac Tam; Dao The Anh; Vu Trong Binh, Nguyen Thi Tan Loc. 2009/ The role of farmer organization in supplying supermarkets with quality food in Vietnam. In Food Policy, vol. 35, pp 69-78/ doi: 10/1016/j.foodpol.2009/08/003/
7/ Đặng Kim Sơn. Chính sách lúa gạo Việt Nam:Tổng quan và lời khuyên chính sách. Bài trình bày tại Hội thảo “Chính sách lương thực của Việt Nam”, Hà Nội, 28/6/2012
8/ Hoàng Thanh Tùng, Nguyễn Văn Sơn, Đào Thế Anh và CS. 2010/ Nghiên cứu chuỗi giá trị ngô Sơn la. Báo cáo của dự án Aciar Tây Bắc.
Tóm tắt
Ngày nay, Việt nam xuất khẩu nhiều nông sản nhưng giá trị thấp do những khâu sau khi thu hoạch và tiếp thị kém. Giá tri nâng cao sinh ra từ những khâu sau khi thu hoạch ở phía trong nước thấp và đa phần nằm ở nước ngoài. Một vài chuỗi giá trị của thị trường trong nước lại có tiềm năng gia tăng giá trị nâng cao. Để tăng năng lực cạnh tranh và giá trị gia của nông sản Việt nam cần có chính sách cuốn hút đâu tư ứng dụng công nghệ cao đồng bộ trong suốt chuỗi giá trị, đồng thời ứng dụng những thể chế tổ chức hợp tác trong chuỗi. Đây là hướng phát triển của nông nghiệp trong khoảng thời gian tới.
Từ khóa: Chuỗi giá trị, công nghệ tân tiến, hợp tác, đầu tư của doanh nghiệp
Abstract:
Ugrading added value in the agricultural value chains of Vietnam
Currently, Vietnam exports many agricultural products but with low value-added due lớn poor post-harvest handling and marketing strategy in the chain. Value added generated from the post-harvest stage is low and mainly located overseas. Lớn improve the competitiveness of agricultural products, Vietnam needs lớn apply policies lớn attract an intergrated investment of modern technology throughout the value chain. This is the development orientation of agriculture in the future.
Key words: Value chain, modern technology, cooperation, business investment.
– Tham khảo thêm chủ đề: Value chain, modern technology, cooperation, business investment, Chuỗi giá trị, công nghệ tân tiến, hợp tác, đầu tư của doanh nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao
Ngoài ra, trong bài viết này, chúng tôi có đề cập đến 1 số loại dinh dưỡng và sâu bệnh, quý bà con có thể dụng các loại thuốc sau để điều trị cho cây trồng:
– Giúp null CẢI TẠO ĐẤT: vino roots,
– Giúp null HẠ PH: root oganic b1,
Nhấp vào nút Mua Nhanh bên dưới để đặt mua qua chúng tôi.
LIÊN HỆ MUA HÀNG : 0969.64.73.79