Nguồn gốc lúa gạo trên thế giới và tại Việt Nam

Nguồn gốc lúa gạo trên toàn cầu và tại Việt Nam

 

Nguồn gốc lúa gạo trên toàn cầu và tại Việt Nam

Nơi xuất phát lúa trồng:

Nguồn gốc lúa gạo trên thế giới và tại Việt Nam

Nơi xuất phát lúa trồng còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng thống nhất về những nơi phát sinh (những trung tâm phát sinh) cây lúa trồng như sau:

– Đông Nam Châu Á: Là nơi cây lúa đã được canh tác sớm nhất, ở thời đại đồ đồng, nghề trồng lúa đã cực kỳ phồn thịnh.

Cây lúa trồng hiện nay có thể được thuần hóa từ nhiều chỗ khác nhau thuộc Châu Á, trong đó phải nói đến Myanma, Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ.

– Tại các nơi phát sinh cây lúa, hiện còn nhiều lúa dại và ở đó dễ tìm kiếm được đầy đủ bộ gen của cây lúa. Từ những nơi phát sinh này, cây lúa đã lan ra những khu vực lân cận và lan đi toàn thế giới với sự giao lưu của con người. Tới những nơi mới với những điều kiện sinh thái mới và sự can thiệp của con người thông qua quá trình chọn tạo mà cây lúa hiện nay có cực kỳ nhiều giống với những đặc thù đặc điểm đa dạng đủ làm thỏa mãn được những đòi hỏi khác nhau của loài người.

Trong cuốn “Cây lúa bắc bộ Việt Nam” xuất bản năm 1964, tác giả Bùi Huy Đáp có viết: “Nếu Việt Nam không phải là trung tâm độc nhất xuất hiện cây lúa trồng thì Việt Nam cũng là một trong các trung tâm sớm nhất của Đông Nam Á được đông đảo nhà khoa học gọi là quê hương cây lúa trồng.

Tổ tiên lúa trồng

Tổ tiên của lúa trồng là lúa hoang dại, qua quá trình lựa chọn tự nhiên và nhân tạo lâu đời trở thành. Lúa dại có một vài đặc tính tự nhiên: Thân nhánh mọc xòe hay bò nổi phía trên mặt nước, hạt có râu dài và cực kỳ dễ rụng, tỷ lệ kết hạt thấp, phản ứng chặt với ánh sáng ngày ngắn.

Tập đoàn lúa dại cực kỳ phong phú, sống trong hoàn cảnh sinh thái cực kỳ khác nhau, chúng có đặc trung hình thức biểu hiện ra bên ngoài và đặc điểm sinh học cực kỳ gần với lúa trồng, nhất là lúa tiên (một trong nhưng dạng hình của lúa tẻ) như thân lá nhỏ, đẻ nhánh mạnh, bông xòe, hạt nhỏ, dễ rụng. Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long cũng có loài lúa dại thường hay được gọi là lúa trời hay lúa ma. Chúng mọc tự nhiên và ra bông vào cuối năm, bông ngắn, hạt có râu dài, dễ rụng, gạo đỏ. Vùng Biển Hồ Căm Pu Chia có loại lúa nổi cao cây, loại này được coi là hình trung gian giữa lúa dại và lúa trồng. Một vài tác giả như Đinh Dĩnh, Bùi Huy Đáp, Đinh Văn Lữ.. tin rằng Oryza Fatua là lúa dại gần nhất và được coi là tổ tiên của lúa trồng ngày nay.

Lúa tẻ có rất nhiều đặc thù, đặc điểm giống lúa dại nên lúa tẻ là hình có trước, tiếp đến có thể do sự khác nhau về phong tục, tập quán, trong điều kiện xã hội ở những khu vực trồng lúa nên đã tạo thành ra lúa nếp. Như vậy, quá trình diễn biến lâu dài và phức tạp, lúa dại đã biến thành lúa trồng và từ lúa trồng đã tạo thành ra nhiều loại hình khác nhau. Sự đa dạng phong phú đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho người canh tác được những giống, loại hình thích hợp với điều kiện đất đai, khi hậu, thời tiết và tập quán trồng trọt.

Lịch sử ngành trồng lúa

Manh nha trong người văn hóa Hòa Bình, thời đá giữa, tiền nông nghiệp Hòa Bình Việt Nam đã có các tiến bộ về chất với cuộc cách mạng đá mới được coi như gắn liền với sự phát triển nghề trồng lúa nước ở Đông Nam Á. Cách mạng đá mới đã sản xuất ra các công cụ đá mài tốt hơn, phù hợp với việc làm ruộng bằng rìu đá đã được cải tiến dần. Văn hóa Bắc Sơn có rìu hai vai, văn hóa Hạ Long có rìu có nấc, văn hóa Phùng Nguyên có rìu tứ diện. Rồi chuyển tiếp từ thời đá sang thời đồng thau. Công cụ bằng đồng đã tạo cơ hội cho nghề trồng lúa thời những vua Hùng có bước tiến nhảy vọt khai thác sông Hồng, sông Mã, sông Lam để trồng lúa. Lúa nước đã phát triển mạnh và trải qua những giai đoạn.

– Giai đoạn Văn Lang

Tài liệu khảo cổ học Đông Sơn tích lũy được ngày càng phong phú cho phép nhận định tương đối rõ về nghề trồng lúa nước ta trong giai đoạn dựng nước, giai đoạn những vua Hùng với nước Văn Lang. Công cụ trồng lúa từ rìu bằng đá, rìu bằng đồng, lưỡi cày Đông Sơn, lưỡi cày Vạn Thắng, lưỡi cày Sơn Tây, lưỡi cày Cổ Loa. Lưỡi cày Cổ Loa bự nhất, rõ rệt là đã do trâu bò kéo.

Ngoài rìu đồng, lưỡi cày đồng còn có cuốc, thuổng, hái. Với công cụ bằng đồng đã chuyên sử dụng để: cuốc, thuổng, lưỡi cày, người ta khai thác những châu thổ thuận lợi hơn để trồng lúa. Thời Văn Lang lúa trồng Oryza sativa đã phát triển mạnh. Giai đoạn đầu là lúa nếp, tiếp đến là lúa tẻ. Trồng lúa trên cao thì đốt rẫy, chọc lỗ bỏ hạt, trồng lúa ở ruộng thấp, phát cây ngâm xuống ruộng cho nhừ rồi trồng lúa. Cùng với cây lúa một vài ngành nghề khác như chăn nuôi, dệt vải, kiếm cá… cũng phát triển. Tóm lại, nông nghiệp Văn Lang đã định hình, có trình độ phát triển ổn định với cây lúa nước là loại cây trồng đa phần.

Người Văn Lang đã giữ lại cho chúng ta các thông điệp qua các di vật mà chúng ta đã phát hiện và sẽ phát hiện được ở phía trong đất. Tìm hiểu thêm và giải mã những thông điệp đó, chúng ta có thêm căn cứ về buổi bình minh hào hùng của đất nước và nghề trồng lúa lâu đời ở nước ta.

– Thời Bắc thuộc

Trong giai đoạn Bắc thuộc, đi đôi với đấu tranh chống áp bức bóc lột giành độc lập dân tộc, nhân dân ta còn kiên trì đấu tranh với thiên nhiên để sinh tồn, phát triển sản xuất và trồng lúa. Cho dù bị kìm hãm hơn một nghìn năm, nhưng nghề trồng lúa của nước ta vẫn có các bước tiến rõ ràng như sử dụng phân để bón cho ruộng lúa. Sử dụng giống lúa mới để trồng và thay lưỡi cày đồng bằng lưỡi cày sắt và 1 năm đã trồng 2 vụ, 3 vụ lúa (Sách Quảng Chi của Quách Nghĩa Cung, thế kỷ 3 và sách Tế Dân yếu thuật của Giả tứ Hiệp, thế kỷ 4).

Ngoài lúa, nghề làm vườn, chăn nuôi, buôn bán cũng phát triển, từ sự giao lưu buôn bán đã thúc đẩy và gia tăng trình độ nông nghiệp và thủ công nghiệp, trong đó có kỹ thuật dùng trâu bò cày kéo. Như vậy thời Bắc thuộc nông dân ta đã biết lựa chọn các gì thích hợp và có ích hơn trong sản xuất lúa của nước ta như giống lúa, phân bón, nông cụ, …

– Giai đoạn độc lập với những vương triều

+ Thời vua Lê Đại Hành: Năm 979 vua Lê Đại Hành lưu ý phát triển kinh tế, nhất là nông nghiệp và nghề trồng lúa, giao thông thủy bộ được mở mang, kênh Thanh Ngọc được đào để thuyền bè đi lại và lấy nước tưới ruộng.

+ Triều Lý (1009-1825): Nông nghiệp thời Lý có bước phát triển mới và nhà nước có rất nhiều chính sách chăm lo phát triển nông nghiệp. Vua cũng thân chinh đi cày ruộng tịch điền và thăm nông dân gặt hái, quan tâm đến lao động nông nghiệp. Có chế độ rèn luyện cho Tiểu hoàng nam từ 17 tuổi. Quân lính hằng tháng được thay phiên nhau về quê sản xuất nông nghiệp. Người phiêu bạt đi những nơi đều được trở về quê hương nhận ruộng cày cấy. Trâu bò được bảo vệ chặt chẽ vì là liên quan đến sức kéo nông nghiệp. Nhà Lý cũng mở rộng việc khai hoang và xây dựng thủy lợi. Nhà Lý đã thắng lợi trong kháng chiến chống Tống (1075 – 1077) với sức mạnh đoàn kết của dân tộc và sự hậu thuẫn của nghề trồng lúa và kinh tế phát triển.

+ Triều Trần Nghề trồng lúa và sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển. Ruộng đồng và đường xá mở rộng thêm với những công trình khai hoang của nhân dân và của nhà nước, những công trình thủy lợi phát triển, đã thúc đẩy nghề trồng lúa ngày càng phát triển. Dưới triều Trần, sau chiến thắng quân Nguyên – Mông, triều đình lấy lại ruộng đất để cấp cho những vương hầu.

+ Triều Lê Chăm lo phát triển kinh tế và có rất nhiều giải pháp thúc đẩy nông nghiệp và nghề trồng lúa phát triển. Nhà Lê coi trọng công tác thủy lợi và đê điều, chống hạn, chống lụt, đắp thêm một vài đê mới và đào thêm nhiều sông ngòi. Cho tới thế kỷ XIX diện tích ruộng ở Đồng bằng sông Cửu Long mới có khoảng 20 vạn hecta. Công trình đào thêm sông ngòi ở Đồng bằng sông Cửu Long cũng được lưu ý.

– Thời Pháp Thuộc

Viện nghiên cứu Nông – Lâm được hình thành năm 1925, những công trình nghiên cứu nông nghiệp đã được tiến hành và vận dụng ở những trại thực nghiệm.

Cục Túc – Mễ Đông dương được hình thành để đảm nhận những công việc nghiên cứu khoa học và tiến hành những thành quả nghiên cứu về lúa, trại nghiên cứu về lúa đặt ở vùng lúa và một vài tỉnh trồng lúa. Thành quả nghiên cứu về lúa và công nghệ trồng lúa như thực vật học, sinh lý học, phân loại học, đất lúa, sâu hại gây bệnh lúa, công việc xay chà, chất lượng của gạo, … đã được xuất bản ở những tạp chí nước ngoài và cuốn sách “cây lúa”, có giá trị gần ngang với những sách về lúa trên toàn cầu thời ấy.

Những trại nghiên cứu lúa ở những địa phương phải đảm trách những công việc.

Thu thập những giống lúa

Lọc giống, chọn ra các dòng tốt

So sánh những dòng đã chọn lựa được

Nhân giống sơ bộ

Nhân giống đại trà

Đồng thời với đào tạo cán bộ nông nghiệp đã có các bộ phận khuyến nông để phát triển sản xuất. Qua kinh nghiệm lâu đời, nông dân đã xác định các cách trồng lúa với những khâu đa phần từ làm đất, đến gặt lúa và đã xác định các việc chính cần làm như: nước, phân, cần, giống và cải tiến cấy, cày, làm đất, chăm sóc v.v…

– Sau cách mạng tháng tám đến nay

Việc cải tiến kỹ thuật ngày càng mở rộng và chuyển nhanh thành phong trào 5 tấn lúa/ hecta /năm. Ruộng thí nghiệm thâm canh đã xuất hiện khắp nơi, đó là nơi học tập rút kinh nghiệm của cán bộ và quần chúng, là nơi nông dân tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật mới. Năng suất lúa đã lên phía trên 5 tấn/ hecta /năm cấy 2 vụ. Tiếp theo phong trào “5 tấn” là phong trào “cách mạng xanh”, vấn đề sản xuất lúa an toàn, Hiện nay, nhiều giống lúa mới ra đời với năng suất trên dưới 10tấn/ hecta /vụ, chất lượng gạo dẻo, thơm, nhiều loại thuốc bvtv (thuốc bảo vệ thực vật) phục vụ cho sản xuất lúa ra đời. Vấn đề lúa sạch, lúa an toàn và bảo vệ môi trường vững chắc lại là vấn đề thời sự đáng quan tâm.

Nguồn: Giáo trình cây lương thực – Trường Cao Đẳng Cơ Điện và Nông nghiệp Miền nam

– Cây trồng liên quan: Cây lúa

– Tham khảo thêm chủ đề: cây lúa, nguồn gốc lúa

Ngoài ra, trong bài viết này, chúng tôi có đề cập đến 1 số loại dinh dưỡng và sâu bệnh, quý bà con có thể dụng các loại thuốc sau để điều trị cho cây trồng:

Nhấp vào nút Mua Nhanh bên dưới để đặt mua qua chúng tôi.

LIÊN HỆ MUA HÀNG : 0969.64.73.79