Các nguyên tắc chọn tạo, nhân giống, thu hái và sơ chế cây dược liệu

Những quy tắc chọn tạo, nhân giống, thu hái và sơ chế cây dược liệu

 

Những quy tắc chọn tạo, nhân giống, thu hái và sơ chế cây dược liệu

1/ Chọn tạo và nhân giống cây dược liệu

Cũng như toàn bộ những cây trồng nông, lâm nghiệp khác, việc chọn tạo và nhân giống cây dược liệu cũng có ý nghĩa rất rộng lớn trong sản xuất. Giống là giải pháp kỹ thuật hàng đầu có ý nghĩa tạo tiền đề cho những giải pháp phương pháp thâm canh khác phát huy hiệu quả. Trong sản xuất, ươm giống là giải pháp rẻ tiền và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Việc chọn tạo và nhân giống cây dược liệu cũng hoàn toàn căn cứ vào nền tảng di truyền học, các lý luận và biện pháp chọn tạo giống của toàn bộ những cây trồng khác.

Những biện pháp chọn tạo giống cây trồng truyền thống và tân tiến đều được vận dụng cho cây dược liệu là biện pháp nhân giống hữu tính và vô tính khác nhau, phụ thuộc vào đặc tính sinh học, đặc điểm sinh lý của từng loài cây dược liệu khác nhau để vận dụng cho thích hợp có chất lượng cao và hiệu quả kinh tế nhất. Điều đặc biệt quan trọng trong công tác giống là dù bằng cách nhân giống nào cũng phải đạt một vài đòi hỏi chung như: Có hệ số nhân giống cao, độ đồng đều cao, cây con giữ được bản chất di truyền cao, có sức sống và khả năng thích ứng cao. Đồng thời phải giữ hoặc gia tăng đặc điểm dược lý tốt của cây bố mẹ.

Các nguyên tắc chọn tạo, nhân giống, thu hái và sơ chế cây dược liệu

2/ Thu hoạch, bảo quản và sơ chế cây dược liệu

2/1/ Thu hoạch

Thu hái cây dược liệu được triển khai khi tỷ lệ hoạt chất đạt cao nhất trong cây. Biện pháp và thời điểm thu hái những cây dược liệu khác nhau thì khác nhau. Các cây dược liệu trồng ở các khu vực sinh thái khác nhau thì có thời gian thu hoạch khác nhau. Chẳng hạn, hoa hoè thu hái lúc chớm nở, địa hoàng thu hái lúc củ trưởng thành…

Thu hoạch cây dược liệu ở nước ta thường dựa trên một vài căn cứ sau:

Dựa trên bộ phận thu hái trên cây dược liệu để thu hoạch.

+ Bộ phận là rễ, gốc, củ thì mùa thu hoạch tối ưu nhất là mùa khô nóng (mùa đông ở miền

Bắc và mùa hè ở trung bộ ) vì ngay lúc này là lúc mà những bộ phận phía trên mặt đất của dược liệu đạt thấp nhất. Khi tiến hành thu hoạch triển khai gột sạch đất, cố gắng không làm nbsp;xây xát. Tiếp đến đem rửa sạch, phơi hay sấy khô rồi tiếp tục những công đoạn chế biến tiếp theo.

+ Bộ phận là thân, vỏ (quế, đỗ trọng…) triển khai bóc sát vào tượng tầng rồi triển khai phơi, sấy. Tiếp đến triển khai những công đoạn tiếp theo.

+ Bộ phận thu hoạch là hoa, lá thì mùa thu hái tối ưu nhất là mùa xuân và mùa hè vì hai mùa này dược liệu có chất lượng tối ưu nhất. Triển khai thu vào thời kỳ nụ hay chớm nở hoa là tối ưu. Tiếp đến triển khai phơi, sấy để giúp cố gắng không làm mất một số loại hoạt chất trong sản phẩm.

+ Bộ phận thu hoạch là hạt hay quả triển khai thu khi trái đã đủ chín sinh lý là tối ưu. Tiếp đến triển khai phơi hoặc sấy.

Dựa trên nhu cầu dùng, thời gian sinh trưởng và thời tiết cụ thể khi tiến hành thu hoạch.

+ Đối với các loại cây dược liệu mỗi năm, phần thu hái là những bộ phận phía trên mặt đất, người ta thu hái vào lúc cây ra nụ hoặc ra bông là lúc hàm lượng những hoạt chất đạt cao nhất trong cây.

+ Đối với những dược liệu thu hái để chế biến tinh dầu nên chọn thời gian thu hoạch vào lúc khô sương và đừng nên thu hái vào lúc trời mưa vì ngay lúc này hàm lượng nước trong cây đạt cực kỳ cao, không bảo đảm chất lượng của dược liệu. Bên cạnh đó một vài dược liệu thu hoạch trong thời điểm mùa mưa hoặc giữa mùa mưa thì những bộ phận thu hoạch sẽ bị thối hỏng.

2/2/ Bảo quản và chế biến dược liệu

Sau khi thu hoạch dược liệu được bảo quản và chế biến bằng các biện pháp khác nhau như phơi, sấy, sao tẩm, ổn định, thủy phi, tôi nấu… đối với một vài cây dược liệu, dưới công dụng của men, sự lên men cũng có giá trị như: hạt Cacao, Chè đen, rễ Long đởm sử dụng cho ngành chế biến rượu có mùi vị dễ chịu với sự thay đổi của màu sắc. Nhưng nhiều khi, người ta cố gắng giữ nguyên vẹn những hoạt chất như khi chúng là loại cây tươi.

Quy tắc thông thường nhất người ta làm được việc đó bằng phương pháp giảm tỷ lệ nước để cho những phản ứng do men không thể xẩy ra được. Đồng thời người ta khống chế sự sinh sản của những vi khuẩn, của nấm mốc trên dược liệu. Lượng nước trong nguyên vật liệu càng thấp càng bảo quản được chất lượng nguyên vật liệu.

Như vậy việc phơi, sấy, sao, tẩm… là giải pháp mà con người đã dùng từ thời cổ xưa nhất. Giải pháp đó vẫn là giải pháp hay sử dụng nhất, tuy đã có rất nhiều thay đổi cho hoàn chỉnh. Đòi hỏi lớn nhất của việc bảo quản chế biến dược liệu là phải giữ được đặc điểm dược lý, tức là không làm hỏng những hoạt chất của dược liệu. Chúng ta điểm qua những cách thức bảo quản khác nhau ngày nay đang được sử dụng.

  • Phơi dược liệu: Là một biện pháp cổ truyền lâu đời nhằm tận dụng năng lượng ánh sáng mặt trời để làm khô dược liệu. Điều lưu ý là khi phơi không được phơi trực tiếp

xuống sàn xi măng mà chỉ được phơi ở phía trên nong, nia hay trên liếp để có thể bảo đảm nguyên tắc âm dương ngũ hành của y học phương Đông (đất âm còn dược liệu dương). Trong suốt quá trình phơi phải triển khai đảo đều cho dược liệu khô đều. Đa số dược liệu đều phơi trong bóng râm; đối với các loại dược liệu cho tinh dầu quí thì mới phơi ở các nơi có ánh nắng chiếu vào.

Kiểu sấy này nối dài từ vài giờ đến vài tuần dựa theo nbsp;ẩm độ của không khí và kết cấu của cây. Người ta không những định sử dụng với hoa có màu sắc dễ bị hỏng và với cây có tinh dầu dễ bị mất tinh dầu.

  • Sấy dược liệu: Là phương pháp sử dụng nhiệt độ để gây giảm hàm lượng nước trong dược liệu trong khoảng thời gian ngắn hoặc khi không thể phơi nắng. Đây chính là nbsp;phương pháp đa phần dùng đối với một số loại dược liệu là rễ, củ, quả. Quá trình sấy được chia thành nhiều thời kỳ theo sự tăng dần của nhiệt độ. Đa số những dược liệu khi sấy nhiệt độ thời kỳ đầu (từ 3- 4 h) đưa nhiệt độ ở mức 60- 70 0 C; thời kỳ hai (từ 8 – 12h) đưa nhiệt độ ở mức 80 – 90o C; thời kỳ ba nhiệt độ là 105 0 C. Thông thường thời điểm này dài hay ngắn phụ thuộc vào mỗi loại dược liệu khác nhau.

Lưu ý:

– Khi xây lò sấy phải có đủ độ thông khí, hơi nước thoát ra từ nguyên vật liệu vì hàm lượng nước trong cây lớn đạt từ 65 – 80 %.

– Khi xếp khối lượng nguyên liệu vào lò sấy cần sắp xếp sao cho thoáng đãng, không được chất đống, một số loại thân, lá tươi xanh (hàm lượng nước lớn) cần xếp mỏng và xếp ở phần dư ới của lò sấy.

Ổn định dược liệu:

Ổn định dược liệu là công việc trước khi đưa vào bảo quản. Sau khi phơi năng hoặc sấy đã đạt đòi hỏi khô hoặc khô kiệt, trạng thái của đa số những dược liệu đều giòn, dễ gãy nát do đó khi thu gom hoặc ra lò cần lưu ý tránh dập nát. Thường những dược liệu phơi nắng người ta để chúng tại chỗ 2- 3h, khi tắt nắng mới thu gom. Nếu là sấy trong lò sấy thì phải mở của lò, cửa thông gió, lò sấy nguội (có nhiệt độ bình thường) mới đưa dược liệu ra khỏi lò.

Để giúp tránh quá trình chuyển hóa những hợp chất trong dược liệu khi bảo quản, hoặc do sự thâm nhập của một vài nấm mốc gây bệnh người ta hay sử dụng một vài chất hóa học để xông hơi như sử dụng cồn 90 0 hay diêm sinh. Diêm sinh có tên khoa học là Sulfur, trong đông y còn được gọi là lưu hoàng, hoàng n hecta, thạch lưu hoàng hay oải lưu hoàng (Đỗ Tất Lợi, 1999 trang 1037).

Trong suốt quá trình bảo quản nhiều dược liệu chứ a những nbsp;Enzim và các nbsp;enzim này tiếp tục chuyển hoá theo hai chiều hướng có ích hoặc gây tổn thương cho dược liệu. Tuy vậy chiều hướng gây tổn thương diễn ra mạnh mẽ và đa phần hơn. Để ngăn ngừa khả năng này người ta dùng nước sôi, cồn sôi, diêm sinh (xông hơi) để diệt trừ men.

Bảo quản dược liệu:

Đa số những dược liệu đều bảo quản bằng phương pháp bảo quản kín, nơi có nhiệt độ thấp và thoáng mát. Sau khi dược liệu qua thời kỳ ổn định người ta bảo quản trong bao hai lớp (lớp bên trong là một số loại túi làm từ cói, đay, vải, lớp bên ngoài là bao P.E) để cách ly không khí.

Thời gian bảo quản từng loại dược liệu khác nhau có thể kéo dài từ 2 – 6 tháng (không kể một số loại dược liệu đặc biệt)

Chế biến dược liệu (Điều chế dược liệu):

Dược liệu sau khi thu hái cần trải qua thời kỳ chế biến rồi điều chế thành dạng thuốc viên, dạng cao, dạng chiết suất của những chất nhằm làm mất đi hoặc gây giảm mức độ độc hại của dược liệu, loại bỏ tạp chất làm sạch dược liệu, hỗ trợ cho quá trình bảo quản chế biến ra sản phẩm thuốc, bảo đảm độ an toàn khi dùng, sinh ra nbsp;mùi vị dễ chịu và hướng dược liệu vào đúng ảnh hưởng của chúng trong suốt quá trình chữa trị. Nhiều loại dược liệu sau khi phơi, sấy và ổn định đã là những dược liệu thành phẩm, tức là đã dùng nbsp;được nhưng nhiều loại sau khi phơi, sấy mới chỉ đạt mức sơ chế, để trở nên thành phẩm phải qua chế biến.

Có rất nhiều biện pháp chế biến nhưng dù phương pháp nào cũng cần đạt được mục đích sau:

* Mục đích của việc chế biến dược liệu:

Khi bào chế một số loại dược liệu Đông y cũng phải như điều chế như Tây y, điều chế phải đạt những mục đích sau:

+ Khiến cho bài thuốc tốt hơn lên bằng phương pháp bỏ các bộ phận vô ích (như rơm, rạ, vỏ hạt và tạp chất khác)

+ Hạ bớt hay loại bỏ độc tính của bài thuốc hay chất không cấp thiết đối với một vài loại bệnh ổn định.

Ví dụ: Rang hạt thảo quyết minh (hạt muồng) khi không muốn sử dụng công dụng tẩy của chính nó khi vẫn giữ được tính gây ngủ của chúng.

+ Hỗ trợ cho bảo quản tốt, dễ dàng, gọn nhẹ, dễ dùng.

– Biện pháp điều chế sử dụng lửa:

Có rất nhiều biện pháp điều chế qua lửa như:

+ Nung (đoan): Cho bài thuốc trực tiếp vào lửa hồng, hay vào chảo đất, chảo gang. Thường sử dụng cho những bài thuốc là khoáng vật (lô cam thạch, vỏ sò, vỏ hà, thạch quyết minh)

+ Vùi hay lùi: Bọc bài thuốc trong giấy ẩm, bột hồ ẩm, vùi vào tro than hồng hay lửa nhẹ, đến khi giấy bột hồ cháy đen, mục đích rút bớt một phần chất dầu của bài thuốc (như chế nhục đậu khấu hay cam toại)

+ Sao (rang): Cho bài thuốc vào chảo sao vàng hoặc sao đen, mục đích sao vàng để gia tăng mùi vị cho dễ uống, sao đen để gia nâng cao tính chất thu sáp. Lưu ý sao cháy đen nhưng cần tồn tính nghĩa là tuy cháy nhưng không được thành tro. Lưu ý khi sao phải đảo đều và lửa nhỏ.

+ Trích hay tẩm: Tức là tẩm vào bài thuốc một chất khác rồi mới đem sắc hay nướng. Chẳng hạn như tẩm mật hoặc tẩm nước gừng, tẩm giấm rượu, tẩm nước tiểu.v.v.

+ Nướng: Là hơ bài thuốc trên lửa, nếu trên lửa mạnh thì gọi là bổi, ở trên lửa nhẹ thì gọi là hồng.

– Biện pháp điều chế sử dụng nước:

Mục đích khiến cho dược liệu sạch, mất bớt hương vị (mặn, tanh), làm mềm hoặc làm đông lắng…

– Biện pháp kết hợp cả nước với lửa: Gồm những nbsp;phương pháp như: chưng (đồ), đun, sắc, tôi, cất.

+ Chưng: Là đem cách thủy hay đồ như đồ xôi. Ví dụ: Chưng Hà Thủ ô với đậu đen

+ Đun: Là cho bài thuốc hay nước ép của bài thuốc vào đun sôi nhẹ cho thuốc chín.

+ Tôi: Đun nóng đỏ bài thuốc rồi nhúng ngay vào nước lã hay nước một bài thuốc nào đó, làm rất nhiều lần. Ví dụ: nung lô cam thạch và nhúng ngay vào nước hoàng liên

+ Sắc: Cho thuốc vào nước đun sôi cô đặc lấy nước.

+ Cất: Đun lấy hơi bốc lên, để ngưng đọng. Ví dụ: cất tinh dầu

Ngày nay do công nghệ chế biến hiện đại, đa số loài dược liệu đã được chế trở thành viên, thành dạng cao… Theo công nghệ sản xuất tân tiến vừa gia tăng chất, vừa tiện dụng ngang tầm với một số loại dược liệu tây y.

Nguồn: Bài giảng cây dược liệu – Đại học nông lâm Huế

– Tham khảo thêm chủ đề: cây dược liệu, thu hoạch cây dược liệu, sơ chế cây dược liệu, bảo quản cây dược liệu

Ngoài ra, trong bài viết này, chúng tôi có đề cập đến 1 số loại dinh dưỡng và sâu bệnh, quý bà con có thể dụng các loại thuốc sau để điều trị cho cây trồng: – Giúp hạn chế chết CÂY CON: elcarin, sunshi, thần y trị bệnh, sat, kasumin, siêu vi khuẩn agri-a, kinkinbul, athuoctop 480sc, ridomil gold 68wp, – Giúp trị vi khuẩn VI KHUẨN : avalon 8wp, kasumin 2sl, k.susai 50wp, kufic 80sl, rorai 21wp, dũng sĩ diệt khuẩn, visen 20sc, daone 25wp, yomisuper 22sc, actinovate 1sp,

Nhấp vào nút Mua Nhanh bên dưới để đặt mua qua chúng tôi.

LIÊN HỆ MUA HÀNG : 0969.64.73.79