Những tiến bộ và triển vọng của ngành trồng lúa

Các tiến bộ và triển vọng của ngành trồng lúa

 

Các tiến bộ và triển vọng của ngành trồng lúa

Các tiến bộ của ngành trồng lúa

– Giống lúa: Về giống lúa trải qua hàng ngàn đời, người nông dân lựa chọn các biến dị trong tự nhiên các giống lúa phục vụ nhu cầu lương thực ngày càng cao. Ở trên cơ sở nguồn gene đa dạng chứa đựng nhiều đặc điểm quý nằm trong hàng ngàn giống cổ truyền, những nhà di truyền chọn tạo giống lúa đã kế thừa và phát triển, ứng dụng biện pháp lai tạo truyền thống và nhiều biện pháp tân tiến khác như đột biến, nuôi cấy tế bào, nuôi cấy túi phấn, thay đổi gen… nhằm tạo chọn lựa được nhanh và nhiều giống lúa phục vụ nhu cầu ngày càng cao cho an ninh lương thực và an sinh xã hội. Nếu mà trước kia, để có giống lúa mới sử dụng rộng rãi trong sản xuất phải mất hàng chục năm, thì nay chỉ cần một số năm.

+ Giống lúa có chất lượng gạo cao: Ngày nay thị trường thế giới đang chuyển hướng về lúa gạo có chất lượng cao, đặc trưng ở những nước đã phát triển và ở Trung Đông. Tại những xứ này, người dân bắt đầu có xu hướng đa dạng hóa thức ăn hằng ngày, họ thích gạo hạt dài và thơm (nhưng không quá thơm). Người ta nhận ra rằng

* Lúa gạo có chất lượng cao như Basmati 370 của Ấn Độ, Pakistan, Jassmine 85 của Mỹ và Khao dawk mali 105 của Thái Lan, … thường hay được ưa thích và có giá gấp 3 ÷ 4 lần giá bình quân gạo xuất cảng của Việt nam (Giá gạo thơm từ 500 ÷ 1000 đô la/tấn, trong khi gạo thường từ 200 ÷ 250 đôla/tấn, thời gian năm 2000).

* Dù xuất khẩu với lượng nhỏ gạo chất lượng cao nhưng số ngoại tệ thu về vẫn bằng hoặc cao hơn hơn xuất khẩu số lượng lớn nhưng chất lượng kém.

* Vấn đề chuyên chở, chế biến, bao bì và bảo quản lúa gạo với chất lượng cao cũng ít tốn kém hơn.

Chính vậy ngành sản xuất lúa đã có các tiến bộ vượt bậc trong suốt quá trình cải tiến giống lúa, sản xuất, tiêu thụ và dịch vụ sản phẩm lúa gạo.

Những tiến bộ và triển vọng của ngành trồng lúa

Cánh đồng lúa Việt Nam – Giáo trình cây lương thực (cây lúa)

– Đổi mới trong trồng trọt cây lúa

+ Tân tiến hóa trồng trọt lúa: Tân tiến hoá nông nghiệp cực kỳ cấp thiết để tăng hiệu quả sản xuất, tăng lợi tức nông thôn và đồng thời thu nhỏ mức chênh lệch công bằng xã hội ngày nay giữa thành thị và nông thôn. Riêng ngành trồng trọt lúa tại Việt Nam vào thế kỉ 21 không thể còn tiếp tục hình thức cổ truyền, lấy nhân công làm cơ bản, “bán mặt cho đất bán lưng cho trời, con trâu đi trước cái cày theo sau”, hiệu quả sản xuất thấp, mức thu nhập kinh tế kém và tốn không ít thời gian nghiên cứu về Nông nghiệp như của thế kỉ 20 vừa mới qua. Với đất hẹp người đông, nước ta cần phải nâng cấp để tăng năng suất lao động, năng suất đất đai, hiệu quả sử dụng nước, bảo vệ đa dạng hình thức biểu hiện ra bên ngoài và bảo tồn môi trường lành mạnh để có thể khai thác lâu bền và để dành đất cho những hoạt động rất hiệu quả. Vậy nên, công cuộc tân tiến hóa trồng trọt lúa phải được thực thi với các mục tiêu sau:

* Tăng hiệu suất lao động, đất đai và nước.

* Ứng dụng quản lý mùa màng và kỹ thuật chuẩn xác

* Nâng cao chất lượng sản phẩm và tay nghề

* Bảo vệ môi trường lành mạnh

Để đạt đến những mục tiêu nêu trên, ngành trồng lúa phải thực thi cơ giới hoá, ứng dụng quản lý tổng hợp mùa màng, ứng dụng những kỹ thuật hiện đại, phát triển công nghệ chế biến và bảo quản, công nghệ sinh học, đa dạng hoá nông nghiệp, mở rộng mạng lưới thông tin, củng cố ruộng đất, tăng mức độ vững chắc trong trồng trọt lúa và khuyến khích tính chất đa năng của ngành trồng lúa.

+ Công nghiệp hóa ngành trồng lúa: Công nghiệp hóa là một tiến trình sản xuất mà trong đó hầu hết hoạt động được thay thế bằng máy móc để nâng cao năng suất lao động trên một đơn vị đất đai và thu được hiệu quả rất cao.

Việc dùng máy kéo trong nông nghiệp ở Việt Nam tăng tương đối nhanh, từ 2/500 máy trong năm 1961 lên 2/800 trong 1970, 25/086 trong 1990 và 122/958 trong 1998 (FAO, 2000). Đến nay một số loại máy gieo hạt, máy cấy, máy gặt đã và đang phát triển mạnh trong sản xuất lúa.

Do đó, công nghiệp hóa nông nghiệp nói chung và ngành trồng lúa nói riêng còn phụ thuộc vào tình hình kinh tế tại nông thôn và cần phải phát triển kinh tế đồng bộ cả nước.

+ Quản lý tổng hợp mùa màng trên ruộng lúa

Quản lý tổng hợp mùa màng là một biện pháp được đúc kết thành một phương pháp kỹ thuật gồm có những nhân tố kỹ thuật cấp thiết đã sẵn có như: Quản lý tổng hợp dịch hại; Quản lý tổng hợp dưỡng chất cho cây trồng ; Quản lý tổng hợp nước; Quản lý tổng hợp diệt trừ cỏ và những biện pháp trồng trọt nâng cấp khác thích nghi cho mỗi vùng, mỗi địa phương để đạt được năng suất có nhu cầu. Tổng hợp những nhân tố kỹ thuật đó còn được gọi là biện pháp “Quản lý mùa màng tổng hợp”, biện pháp này là một kết quả tổng hợp từ kinh nghiệm của những nông dân hiện đại, chuyên viên khuyến nông và những kết quả thí nghiệm từ những Viện, Trung tâm nghiên cứu và cũng là mô hình gồm có một vài nhân tố kỹ thuật quan trọng quyết định năng suất tốt nhất của một vụ lúa tại một địa phương. Nếu trong mô hình kỹ thuật này thiếu đi một nhân tố cấp thiết nào đó sẽ làm năng suất giảm sút theo lối liên hoàn.

+ Ứng dụng những kỹ thuật hiện đại

* Sử dụng bảng so màu lá lúa: Sử dụng bảng so màu lá lúa để ứng dụng bón phânđạm cho lúa có công dụng lớn đến năng suất lúa và kinh tế của người trồng. Bảng so màu lá lúa có 6 bậc thang màu xanh lá cây: màu sắc thay đổi từ màu xanh lá vàng nhạt (số 1) cho tới màu xanh đậm (số 6). Bảng này giúp đo cường độ của màu lá liên lạc trực tiếp tới diệp lục tố của lá và hiện trạng chất đạm trong lá (IRRI, 1998). Cho nên, có thể chia sẻ cách người trồng lúa hướng dẫn sử dụng bảng so màu lá lúa để ứng dụng bón phân đạm trong trồng trọt lúa 1 cách hữu hiệu.

* Trồng lúa lai: Cho dù Việt Nam là một nước xuất khẩu nhiều gạo, lúa lai vẫn chiếm một vị trí quan trọng về cách làm nâng cao năng suất lúa để dành đất đai cho nhiều loại hoa màu khác có giá trị nhiều hơn.

Những tiến bộ và triển vọng của ngành trồng lúa

Ruộng lúa tại California – Giáo trình cây lương thực (cây lúa)

* Trồng siêu lúa (Super rice): Tiềm năng của lúa ở vùng ôn đới đến 13 tấn/ hecta vì khí hậu thuận lợi bởi lúa của vùng này chỉ trồng vào mùa hè có ngày dài, nhiều ánh sáng, ít mây và nhiệt độ buổi tối thấp. Năng suất bình quân của California là 9,8 tấn/ hecta, Úc châu 8,4 tấn/ hecta và Ai Cập 8,5 tấn/ hecta. Do đó những chuyên gia lúa gạo trên toàn cầu đang nghiên cứu đưa tiềm năng năng suất lúa lên 15 ÷ 17 tấn/ hecta.

Viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế tại Los Banos, Philippin đã bắt đầu nghiên cứu về phương diện sinh lý cây lúa để hình thành loại lúa siêu đẳng từ năm 1985 và lai giống lúa siêu đẳng giai đoạn đầu từ năm 1989/ Họ sử dụng chiến lược hai bậc: trước tiên tạo giống lúa giữa Indica và Japonia nhiệt đới để có 12,5 tấn/ hecta và tiếp đến sử dụng biện pháp lúa lợi thế lai để gia tăng từ 12,5 lên 15 tấn/ hecta. Họ hi vọng có được giống lúa siêu đẳng này để nông dân trồng vào năm 2005/ Viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế đã tạo được những dòng có năng suất từ 11 ÷ 12 tấn/ hecta, nhưng có ba vấn đề cần phải xử lý: chất lượng kém, dễ bị sâu hại nhất là rầy nâu và nhiều hạt lép.

Những tiến bộ và triển vọng của ngành trồng lúa

Cánh đồng lúa Philippin – Giáo trình cây lương thực (cây lúa)

Để hoàn tất mục tiêu trên, lúa siêu đẳng cần hội đủ những tiêu chuẩn của cây lúa như sau: 3 ÷ 4 chồi trên mỗi bụi lúa, 200 ÷ 250 hạt trên mỗi bông, 90 ÷ 100 centimét chiều cao, thân cứng, lá dày, xanh đậm và thẳng đứng, hệ thống rễ mạnh, 100 ÷ 130 ngày, kháng các sâu hại quan trọng và chất lượng cao. Lúa siêu đẳng đã thành công ở những nước trồng lúa ôn đới vì khí hậu những chỗ này thuận lợi hơn trong đó thời gian ngậm sữa nối dài hơn từ 40 ÷ 50 ngày nhờ nhiệt độ thấp vào cuối mùa.

– Phát triển công nghệ chế biến

+ Công nghệ chế biến nông sản: Ngành công nghệ chế biến nông sản gồm cả lúa gạo cực kì quan trọng vì nâng cao giá trị nông sản, làm bớt khó khăn trong vấn đề bảo quản và thị trường tiêu thụ, tạo công việc làm và đồng thời giúp cải tiến nền nông nghiệp cổ truyền. Một khi nền kinh tế nước nhà phát triển mạnh và đời sống của người dân cao, nhu cầu về những thực phẩm gạo chế biến có thể dùng mau chóng (nếu được ưa thích ) sẽ nâng cao.

+ Phơi sấy: Hiện nay đã ứng dụng việc sấy lúa cả trong thời điểm mùa khô và tất nhiên mùa mưa sẽ hạ thất thoát do phơi sấy.

Ứng dụng công nghệ sinh học của ngành trồng lúa

Thế kỉ 21 sẽ là kỉ nguyên của công nghệ sinh học và tin học. Công nghệ sinh học đã và đang được sử dụng cho ngành sản xuất lúa như cấy mô, cứu phôi, đột biến, chẩn đoán nguyên do bệnh. Đồng thời với sự ứng dụng công nghệ sinh học cho ngành trồng lúa thì tin tức công nghệ sinh học, luật lệ an toàn sinh học và chuẩn bị đào tạo thêm chất xám để tiến lên trình độ cao cho tương lai ai cũng được quan tâm, triển khai song song và biện pháp thay đổi gen cũng đã được chú trọng đến trong các trường hợp có thể ứng dụng.

Triển vọng của ngành trồng lúa

– Ở trên toàn cầu

Theo Tổ chức Nông Lương Liên hiệp quốc (FAO), sản lượng lúa năm 2009 đạt 678 triệu tấn, tăng 10 triệu tấn so sánh với dự báo trước đây, do sản lượng tăng ở nhiều nước châu Á. Sản lượng lúa này, tương tự với 452 triệu tấn gạo, hạ 2% so sánh với năm 2008 do thời tiết xấu ở một số nước sản xuất, song vẫn là mức kỷ lục thứ hai về sản lượng lúa.

Hạn hán hoặc mưa quá nhiều đã làm chậm trễ việc gieo cấy vụ lúa chính ở Nam Mỹ, cộng thêm các lo ngại về hạn hán phối hợp với El Nino có thể tác động tới mùa màng ở Inđônêxia. Sản lượng lúa Ôxtrâylia dự báo tăng song vẫn dưới mức cao các năm đầu thập niên 2000. Triển vọng sản lượng không mấy sáng sủa ở những nước Nam Phi, khi thời kỳ lốc xoáy từ tháng 1 đến tháng 3 vừa mới bắt đầu (Agroviet – 26/01/2010).

Những tiến bộ và triển vọng của ngành trồng lúa

Ruộng lúa Nhật bản – Giáo trình cây lương thực (cây lúa)

– Ở Việt Nam:

Ngày 21/8/2009, hội thảo về chiến lược an ninh lương thực quốc gia đến năm 2020 và 2030 đã được tổ chức tại TP.HCentimét. nbsp;

Phát biểu tại hội thảo, Cục trưởng Cục canh tác – Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn – Tiến sĩ Nguyễn Trí Ngọc tin rằng theo dự thảo chiến lược thì Đồng bằng sông Cửu Long sẽ giữ vai trò quan trọng đối với an ninh lương thực quốc gia.

Đồng bằng sông Cửu Long chiếm khoảng 52-55% tổng sản lượng và hơn 90% tổng xuất khẩu gạo của Việt Nam. Đây cũng được biết đến như là vựa trái cây lớn, chiếm trên 80% sản lượng trái cây của cả nước.

Tiến sĩ Nguyễn Trí Ngọc (2009) nhận định, gạo và trái cây là các mặt hàng tiềm năng nhất và có sức cạnh tranh cao so sánh với những nước khác trong khu vực và trên toàn cầu.

Cũng tại hội thảo, giáo sư – tiến sĩ – nhà giáo nhân dân Võ Tòng Xuân, một nhà khoa học nổi tiếng với những công trình nghiên cứu khoa học nông nghiệp, tin rằng ban soạn thảo chiến lược cần phải đưa ra một kế hoạch tổng thể về sản xuất lúa gạo cho từng khu vực cũng như cho cả quốc gia và trình Quốc hội xem xét, thông qua.

Chiến lược an ninh lương thực quốc gia đã đưa ra lời khuyên duy trì 4 triệu ha trồng lúa vào năm 2010 và hạ xuống mức 3,6 triệu ha vào năm 2020. Sau năm 2020, diện tích trồng lúa sẽ hạ xuống còn 3,5 triệu ha và duy trì ở mức này cho đến năm 2050.

Cho dù diện tích trồng lúa hạ, nhưng sản lượng lúa dự định sẽ tăng và đạt 36,5 triệu tấn vào năm 2010, 39,8 triệu tấn vào năm 2020 và 40,5 triệu tấn vào năm 2030.

Nguồn: Giáo trình cây lương thực – Trường Cao Đẳng Cơ Điện và Nông nghiệp Miền nam

– Cây trồng liên quan: Cây lúa

– Tham khảo thêm chủ đề: cây lúa, trồng lúa

Ngoài ra, trong bài viết này, chúng tôi có đề cập đến 1 số loại dinh dưỡng và sâu bệnh, quý bà con có thể dụng các loại thuốc sau để điều trị cho cây trồng: – Giúp trừ cỏ TRỪ CỎ: onecide 15ec,

Nhấp vào nút Mua Nhanh bên dưới để đặt mua qua chúng tôi.

LIÊN HỆ MUA HÀNG : 0969.64.73.79