Đặc Điểm Thực Vật Và Đặc Tính Của Cây Lúa.
Cây lúa, còn được gọi là Oryza Sativa, là loại cây thực vật có giá trị kinh tế cao được trồng trên khắp thế giới. Cây lúa là nguồn thực phẩm chính của hơn một nửa dân số thế giới và được sử dụng để sản xuất nhiều sản phẩm khác nhau như bánh mì, bánh quy, bia, rượu, dầu thực vật và nhiều sản phẩm khác.
Đặc Điểm Thực Vật Của Cây Lúa:
Cây lúa có xuất xứ ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới khu vực đông nam châu Á và châu Phi.
Thân: Lúa thuộc cây hàng niên, thân có thể cao tới 1-1,8 m, thỉnh thoảng cao hơn.
Lá: Lá mỏng, hẹp bản (2-2,5 centimét ) và dài 50-100 centimét.
Hoa: Hoa lúa nhỏ thuộc loài tự thụ phấn mọc thành từng cụm hoa phân nhánh cong hay rủ xuống, dài 30-50 centimét.
Hạt: Hạt là quả thóc (hạt nhỏ, cứng của các giống cây ngũ cốc) dài 5-12 mm và dầy 2-3 milimét.
Cây lúa non được gọi là mạ. Sau khi ngâm ủ, người ta có thể gieo thẳng những hạt lúa đã nảy mầm vào ruộng lúa đã được cày, bừa kỹ hoặc qua thời kỳ gieo mạ trên ruộng riêng để cây lúa non có sức phát triển tốt, sau một thời gian thì nhổ mạ để cấy trong ruộng lúa chính. Sản phẩm thu được từ cây lúa là hạt lúa. Sau khi xát bỏ lớp vỏ ngoài thu được sản phẩm chính là gạo và những phụ phẩm là cám và trấu. Gạo là nguồn lương thực đa phần của hơn một nửa dân số thế giới (đa phần ở châu Á và châu Mỹ La tinh), việc này khiến cho nó trở nên loại lương thực được con người tiêu thụ nhiều nhất.
Hình 1: Hình thức biểu hiện ra bên ngoài cây lúa.
1/ NHẬN DẠNG VỀ Hình thức biểu hiện ra bên ngoài CÂY LÚA
Trong suốt quá trình lớn lên, cây lúa trải qua nhiều thời kỳ sinh trưởng khác nhau. Mỗi thời kỳ, cây lúa có những đặc tính nhận dạng rõ rệt. Đây là cơ sở quan trọng để phân biệt và có các biện pháp ảnh hưởng hợp lý.
Hình 2: Hình thức biểu hiện ra bên ngoài cây lúa ở những thời kỳ sinh trưởng.
2/ Những Thời kỳ SINH TRƯỞNG QUAN TRỌNG CỦA CÂY LÚA
- Căn cứ vào tập quán trồng trọt và đặc tính nông học, cây lúa được chia nhỏ ra thành 4 thời kỳ phát triển và sinh trưởng.
Thời kỳ mạ (còn được gọi là “Khỏe mạ”): được tính từ lúc gieo sạ đến khi xuất hiện 3,2 lá (~20 ngày sau sạ – NSS) (Lancashire et al, 1991). Nếu là lúa cấy thì thời kỳ mạ là thời gian cây lúa trong nương mạ hay khay mạ. - Thời kỳ đẻ nhánh (còn được gọi là “Sung chồi”): được tính từ sau khi mạ được 3,2 lá đến khi cây lúa đạt số chồi nhiều nhất.
- Thời kỳ đòng – trổ (còn được gọi là “Đều đòng”): được tính từ khi cây lúa phân hóa đòng đến khi lúa trổ.
- Thời kỳ chín (còn được gọi là “Đầy hạt”): được tính từ khi lúa trổ đến chín. Trong mỗi thời kỳ sinh trưởng sẽ có các biện pháp kỹ thuật hợp lý để nhiều nhất hóa tiềm năng năng suất của cây lúa.
Hình 3: Những thời kỳ sinh trưởng quan trọng của cây lúa.
3/ Những Nhân tố CẤU THÀNH NĂNG SUẤT
- Năng suất lúa được tạo thành và chịu tác động trực tiếp của 4 nhân tố, gọi là 4 thành phần năng suất lúa. Năng suất lúa = Số bông/đơn vị diện tích x Số hạt/bông x Tỉ lệ hạt chắc x Trọng lượng hạt
- Những thành phần năng suất có liên quan chặt chẽ cùng nhau và 4 thành phần này càng nâng cao thì năng suất lúa càng cao, cho đến khi 4 thành phần này đạt được cân bằng tối hảo thì năng suất lúa sẽ nhiều nhất. Vượt lên mức cân bằng này, nếu 1 trong 4 thành phần năng suất được tăng lên nữa sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến những thành phần còn lại, gây hạ năng suất.
- Mức cân bằng tối hảo giữa những thành phần năng suất để cho năng suất cao thay đổi dựa theo giống lúa, trong điều kiện đất đai, thời tiết và phương pháp canh tác.
Ngoài ra, trong bài viết này, sieuthiphanthuoc.org có đề cập đến 1 số loại dinh dưỡng và sâu bệnh, quý bà con có thể dụng các loại thuốc sau để điều trị cho cây trồng:
– PHÂN BÓN GIÚP TĂNG KHẢ NĂNG THỤ PHẤN CHO CÂY:
=> SUPER BO USA – Tăng Thụ Phấn Đậu Trái, Tránh Rụng Bông Trái Non, Trái To, Chắc Hạt